Hoàn Thiện Các Quy Định Về Trách Nhiệm Đối Với Việc Xâm Phạm Quyền Con Người Của Người Làm Chứng

Trong sự phát triển không ngừng của xã hội, quyền tự do dân chủ của công dân ngày càng được tôn trọng và phát huy trong mọi lĩnh vực của đời sống, vấn đề dân chủ, bình đẳng và bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự luôn là động lực và thước đo tiến bộ xã hội của đất nước, đòi hỏi pháp luật phải có sự điều chỉnh để phù hợp với sự phát triển đó. Việc phân tích các qui định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta về bảo vệ quyền con người của người làm chứng, nhất là mặt hạn chế; đánh giá khá toàn diện những ưu điểm và hạn chế về bảo vệ quyền con người của người làm chứng trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta trong những năm qua; làm rõ tính tất yếu, khách quan và căn cứ xây dựng cơ sở pháp lý, nguyên tắc và nội dung chế định bảo vệ người làm chứng phù hợp với vị trí pháp lý của họ trong tố tụng hình sự. Từ đó kiến nghị, đề xuất các giải pháp để bảo đảm hơn nữa quyền của người làm chứng trong tố tụng hình sự, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là công trình đặc biệt có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn.

3.1.3. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm đối với việc xâm phạm quyền con người của người làm chứng

Bảo vệ người làm chứng cũng như người thân thích của họ góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết nhanh chóng, chính xác, đúng người đúng tội, đúng pháp luật không những là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn là trách nhiệm của người làm chứng cũng như của đối tượng xâm hại người làm chứng.

Trước hết, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ phối hợp với nhau trong việc áp dụng các biện pháp bảo vệ người làm chứng và người thân thích của họ trước các nguy cơ bị tấn công hoặc xâm hại của bọn tội phạm. Các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm bảo đảm cho

người làm chứng thực hiện việc tham gia tố tụng với tư cách là nhân chứng trong vụ án và đó cũng là sự đảm bảo về quyền con người của người làm chứng, phải xây dựng những cơ chế và biện pháp cụ thể để bảo vệ họ. Tuy nhiên, nếu một khi người làm chứng đã bị xâm phạm quyền con người thì trách nhiệm trước hết thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Theo chúng tôi, cần quy định cụ thể về trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng và các quy định khác về cơ chế tổ chức nhằm đảm bảo các quy định đó được thực hiện nghiêm túc trên thực tế và các chế tài tố tụng cũng như kỷ luật áp dụng trong trường hợp các quy định về quyền của người làm chứng bị vi phạm.

Đối với người làm chứng khi bị xâm phạm quyền con người cũng có một phần trách nhiệm của mình. Bên cạnh các cơ chế và biện pháp bảo vệ họ được các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện thì bản thân người làm chứng cũng như người thân thích của họ phải luôn có ý thức nâng cao cảnh giác đối với các hành vi đe dọa, trả thù mình. Trong pháp luật tố tụng hình sự cũng cần có những quy định cụ thể về các chế tài đối với trách nhiệm của người làm chứng khi biết có hành vi đe dọa, trả thù mình nhưng không báo cho các cơ quan chức năng, đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng biết để họ có biện pháp bảo vệ người làm chứng. Quy định như vậy vừa đảm bảo quyền lợi cũng như trách nhiệm của người làm chứng vừa giảm bớt trách nhiệm nặng nề cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi hậu quả xảy ra đối với người làm chứng do họ không khai báo kịp thời các hành vi đe dọa, trả thù cho các cơ quan này biết để tiến hành các biện pháp bảo vệ kịp thời.

Về trách nhiệm đối với việc xâm phạm quyền con người của người làm chứng không chỉ thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, người làm chứng mà còn là trách nhiệm của chính đối tượng xâm hại người làm chứng. Hiện nay, trong pháp luật thực định của chúng ta chưa có những quy định cụ thể về các chế tài xử phạt đối với hành vi xâm hại người làm chứng mặc dù trên thực tế nếu các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của con

người đều bị xử lý nghiêm minh theo Bộ luật hình sự tương ứng với các hành vi do họ gây ra. Tuy nhiên, để hạn chế đến mức thấp nhất việc đe dọa, trả thù người làm chứng, đảm bảo sự uy nghiêm của hoạt động tư pháp, phải chăng cần có quy định một loại tội phạm riêng về dụ dổ, khống chế, đe dọa người làm chứng trong chương các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Trách nhiệm của đối tượng xâm phạm quyền con người của người làm chứng có thể là phải bồi thường thiệt hại do hành vi mình gây ra hoặc cũng có thể là phải chịu trách nhiệm bồi thường tổn thất tinh thần do đe dọa người làm chứng, trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự. Những quy định cụ thể này sẽ phần nào nhằm hạn chế khả năng đe dọa hay trả thù của các đối tượng đối với người làm chứng.



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

tố tụng

3.2. HOÀN THIỆN CƠ CHẾ BẢO VỆ NGƯỜI LÀM CHỨNG

Bảo vệ quyền con người của người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam - 10


3.2.1. Tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành


Nâng cao trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân; bảo đảm hiệu

quả hoạt động và tính độc lập của các cơ quan tư pháp; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân… là những đòi hỏi quan trọng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.

Đặc biệt, trong hoạt động tư pháp hình sự, nơi mà hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) mang tính quyền lực nhà nước rất cao, nơi mà mọi hoạt động chính đều liên quan lớn đến quyền, lợi ích của công dân thì việc quy định rõ quyền hạn và trên cơ sở đó xác định cụ thể trách nhiệm của người tiến hành tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng, mà còn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó có quyền, lợi ích hợp pháp của người làm chứng cũng như những người thân thích của

họ. Do đó, để hoàn thiện cơ chế bảo vệ người làm chứng, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay trước hết cần tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Các cơ quan tiến hành tố tụng là những cơ quan có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn riêng nhưng hoạt động trong mối liên hệ mật thiết, thống nhất của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự, có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để xác minh sự thật của vụ án, chứng minh tội phạm và xử lý người phạm tội. Vì vậy, tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan này là rất quan trọng trong việc bảo vệ những người tham gia tố tụng nói chung và người làm chứng nói riêng. Trước hết, cần phải nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng; tổ chức tốt việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ và định kỳ hàng năm tổ chức thi, kiểm tra chất lượng đội ngũ cán bộ thực hiện công tác tiến hành tố tụng; tạo điều kiện tốt hơn cơ sở vật chất và trang bị phương tiện làm việc cho các cơ quan tiến hành tố tụng để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan này. Việc vừa nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ vừa trang bị phương tiện vật chất tốt cho các cơ quan tiến hành tố tụng là rất quan trọng và có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết vụ án, đồng thời thực hiện tốt các biện pháp bảo vệ người làm chứng. Thực tế cho thấy trong điều kiện hiện nay, cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ hổ trợ cho công tác nghiệp vụ này của các cơ quan tiến hành tố tụng còn khiêm tốn và không hiệu quả, các quy định của pháp luật về bảo vệ người làm chứng chỉ mang tính chất hình thức chứ không được thực thi trên thực tế. Và để tăng cường hiệu quả hoạt động trong công tác này, các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phối hợp với cơ quan công an trong việc áp dụng các biện pháp bảo vệ người làm chứng cũng như những người thân thích của họ trước nguy cơ bị tấn công hoặc xâm hại của bọn tội phạm, có như vậy thì quyền và lợi ích của người làm chứng mới được đảm bảo và họ mới có thể yên tâm để tham gia tố tụng với tư cách là nhân

chứng trong vụ án, góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết án một cách nhanh chóng, công minh và đúng pháp luật bởi vì lời khai của người làm chứng là nguồn chứng cứ xác thực và rất quan trọng.

3.2.2. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp

Nghị quyết về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã chỉ ra rằng sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan trọng. Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Do vậy, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng như các cơ quan bổ trợ tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan, chức danh tư pháp là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta từ nay đến năm 2020. Bên cạnh trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra...thì việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về các cơ quan bổ trợ tư pháp cũng rất quan trọng trong chiến lược cải cách tư pháp. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp chính là hoàn thiện đội ngũ luật sư, công chứng, giám định, cảnh sát tư pháp... Thực tiễn hoạt động tố tụng cho thấy, hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp tuy không trực tiếp quyết định giải quyết các vụ án nhưng sự khách quan, kịp thời, chính xác của các hoạt động bổ trợ tư pháp sẽ góp phần bảo đảm chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Đồng thời, việc thực hiện các biện pháp bảo đảm cho những người tham gia tố tụng nói chung và người làm chứng nói riêng rất cần đến các hoạt động bổ trợ tư pháp, đặc biệt là sự tham gia hổ trợ của lực lượng cảnh sát bảo vệ và hổ trợ tư

pháp. Nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng này là bảo vệ các phiên toà hình sự và vì xác định rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ, lực lượng cảnh sát bảo vệ và hổ trợ tư pháp luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện đúng các quy trình công tác, không để xảy ra sai sót hoặc đối tượng trốn chạy trong quá trình áp giải; không gây mất an ninh trật tự góp phần vào sự thành công của phiên tòa. Do đó, để hoạt động bổ trợ tư pháp nói chung và hoạt động của lực lượng cảnh sát hổ trợ tư pháp nói riêng có hiệu quả cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước đối với các hoạt động bổ trợ tư pháp; từng bước xã hội hóa một số thiết chế bổ trợ tư pháp như: Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm những hành vi tiêu cực trong các hoạt động tư pháp, tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp, đề xuất các cơ chế xử lý vi phạm, nâng cao vai trò quản lý nhà nước trong những lĩnh vực này; Hỗ trợ về cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc và bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp, đáp ứng tốt yêu cầu của hoạt động tố tụng.

3.2.3. Tăng cường giám sát các hoạt động tiến hành tố tụng hình sự

Quyền lực nhà nước dù được tổ chức theo nguyên tắc nào, phân công hay phân quyền, đều luôn phải chịu sự giám sát chặt chẽ và toàn diện, nhằm bảo đảm không xảy ra sự lạm quyền. Và cùng với sự thừa nhận quyền lực nhà nước thì phải thiết lập sự giám sát đối với quyền lực nhà nước. Giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước là vấn đề có tính tất yếu khách quan, ở đâu có quyền lực nhà nước thì ở đó cần có giám sát. Hoạt động tiến hành tố tụng cũng là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước do vậy hoạt động này phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhiều cơ chế khác nhau.

Ở một khía cạnh khác, xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của hoạt động tư pháp hình sự là xem xét, đưa ra các phán quyết chính xác, khách quan, công bằng về tính đúng đắn, hợp pháp trong các hành vi của con người,

nên pháp luật trao cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực thi những thẩm quyền tố tụng mạnh mẽ, thậm chí có những thẩm quyền có khả năng gây ảnh hưởng đến các quyền cơ bản nhất của con người như thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng (biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam…). Kết quả của hoạt động của các cơ quan này có ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền quan trọng nhất của con người như quyền sống, quyền tự do…, ảnh hưởng rất nhiều đến các đối tượng, đặc biệt là các chủ thể tham gia tố tụng, trong đó có người làm chứng. Từ những đặc điểm đó, hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng cần và phải chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của nhiều cơ chế kiểm tra, giám sát khác nhau.

Cơ chế giám sát việc thực hiện hoạt động tiến hành tố tụng ở nước ta hiện nay có thể chia thành hai nhóm: cơ chế tự kiểm tra từ bên trong của mỗi hệ thống cơ quan tiến hành tố tụng và cơ chế giám sát từ bên ngoài hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng.

Cơ chế tự kiểm tra từ bên trong của mỗi hệ thống là các hệ thống kiểm tra, giám sát do chủ thể đặt ra để kiểm tra, giám sát các bộ phận thuộc hệ thống mình trong quá trình thực thi thẩm quyền tư pháp. Đó là hoạt động kiểm tra của cơ quan tiến hành tố tụng cấp trung ương với cơ quan tiến hành tố tụng địa phương, hoạt động kiểm tra của cơ quan tiến hành tố tụng cấp trên với cơ quan tiến hành tố tụng cấp dưới… Hoạt động tự kiểm tra từ bên trong của mỗi hệ thống có mục đích bảo đảm cho các chủ thể thuộc hệ thống của mình thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật. Cơ chế giám sát từ bên ngoài hệ thống bao gồm hoạt động giám sát của các cơ quan nhà nước đối với cơ quan tiến hành tố tụng, còn gọi là giám sát nhà nước (ở nước ta là hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và có sự giám sát của chính cơ quan tiến hành tố tụng là Viện kiểm sát) và giám sát do các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và công dân trực tiếp thực hiện, còn gọi là giám sát xã hội.

Như vậy, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước là vấn đề có tính tất yếu. Trong điều kiện cụ thể của nước ta, xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ, đặc điểm cụ thể của các cơ quan tiến hành tố tụng, cần tăng cường sự kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của các cơ quan này thông qua các cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ khác nhau, đặc biệt là cần thiết lập cho được cơ chế giám sát trực tiếp, thường xuyên và có hiệu quả. Giám sát hoạt động tiến hành tố tụng có mục tiêu bảo đảm cho các cơ quan này thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình; bảo đảm việc giải quyết các vụ án được chính xác, khách quan; bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng; bảo đảm các quyền con người trong các thủ tục tố tụng hình sự do pháp luật quy định được thực hiện triệt để. Việc tăng cường sự giám sát đối với các cơ quan tiến hành tố tụng có ý nghĩa rất to lớn đối với việc bảo vệ những người tham gia tố tụng nói chung và người làm chứng nói riêng. Nếu có một cơ chế giám sát chặt chẽ hoạt động tiến hành tố tụng cùng với các biện pháp bảo vệ người làm chứng thật sự hữu hiệu thì vấn đề bảo vệ quyền con người của người làm chứng sẽ được áp dụng trong thực tiễn chứ không chỉ mang tính quy định chung chung và mang tính hình thức như hiện nay.

Như vậy, giám sát hoạt động tư pháp hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng là hết sức cần thiết bởi vì thiếu nó sẽ xuất hiện sự lạm dụng quyền lực nhà nước và nguy hiểm hơn là sự lạm dụng quyền lực nhà nước trong trường hợp này sẽ gây mất trật tự xã hội, ảnh hưởng đến các quyền cơ bản của con người, ảnh hưởng đến công lý và công bằng xã hội. Trong điều kiện chúng ta đang nỗ lực phấn đấu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa - Nhà nước mà trong đó đề cao Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho hiến pháp và pháp luật được tôn trọng và tuân thủ tuyệt đối, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người, loại bỏ mọi hành vi vi phạm quyền con người trong các hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước…; trong điều kiện chúng ta đang thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp với mục

Xem tất cả 102 trang.

Ngày đăng: 16/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí