Khái Niệm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Nhãn Hiệu Nổi Tiếng

phẩm chế biến và sản phẩm tự nhiên như rượu vang, ngũ cốc, thuốc lá, hoa quả, nước khoáng, bia và bọt.

Theo Điều 780 của BLDS Việt Nam năm 1995 thì quyền SHCN là "quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, quyền sử dụng đối với tên gọi xuất xứ hàng hoá và quyền sở hữu đối với các đối tượng khác do pháp luật quy định.

Ngoài việc liệt kê các đối tượng SHCN cụ thể tại Điều 780, BLDS Việt Nam năm 1995 còn qui định quyền SHCN đối với các "đối tượng khác". Định nghĩa này có yếu tố mở để dần dần cập nhật những đối tượng khác sẽ được bảo hộ với tư cách là đối tượng của quyền SHCN trong tương lai. Cho đến nay, pháp luật Việt Nam bảo vệ thêm các đối tượng SHCN sau: bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới SHCN, thiết kế bố trí mạch tích hợp và được ghi nhận tại một luật riêng - Luật SHTT năm 2005. Điều 4 khoản 4 của Luật SHTT đưa ra khái niệm "Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh".

1.1.1.3. Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp

Quyền SHCN là một loại quyền tài sản, do đó nó có đầy đủ đặc tính của quyền tài sản nói chung đó là: chủ sở hữu có toàn quyền đối với tài sản của mình và không ai được sử dụng tài sản đó nếu không được sự cho phép của chủ sở hữu. Bên cạnh đó, xuất phát từ tính chất đặc thù của các đối tượng SHCN - tài sản trí tuệ, quyền SHCN có những đặc điểm riêng để phân biệt với quyền sở hữu khác, thậm chí với cả quyền tác giả.

Thứ nhất, tính vô hình của đối tượng SHCN

Cũng giống như quyền tác giả, đối tượng quyền SHCN mang đặc trưng của đối tượng quyền SHTT đó là đặc tính vô hình. Đặc tính này hoàn

toàn khác với đặc tính hữu hình của sở hữu tài sản vật chất. Là sản phẩm của sáng tạo trí tuệ, mang tính vô hình nên đối tượng của quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng phải được vật chất hóa hoặc được thể hiện trên các vật mang tin cụ thể. Nói cách khác, tài sản SHTT vô hình phải được phản ánh, thể hiện thông qua những vật thể hữu hình. Một vật thể hữu hình có thể vừa là đối tượng của quyền sở hữu tài sản vật chất lại vừa chứa đựng trong nó đối tượng của quyền SHTT. Đặc tính vô hình của SHTT là đặc trưng quan trọng nhất. Quyền SHCN là một quyền tài sản và đối tượng của quyền SHCN mang tính phi vật chất. Bởi vì, bản thân quyền SHCN không thể tự nó đem lại các tiện ích hiện hữu cho người nắm giữ quyền mà nó chỉ đem lại các lợi ích vật chất và tinh thần cũng như các lợi thế cho chủ sở hữu, người sử dụng khi các đối tượng quyền SHCN được áp dụng vào trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Thứ hai, phạm vi bảo hộ

Quyền SHCN chỉ được thừa nhận và bảo hộ theo thủ tục pháp lý. Chủ thể phải gửi đơn yêu cầu bảo hộ và được cấp văn bằng bảo hộ bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Việc bảo hộ này là bảo hộ độc quyền khai thác, sử dụng của chủ sở hữu đối với đối tượng được bảo hộ trong một thời gian nhất định theo qui định của pháp luật. Chỉ chủ sở hữu mới có quyền sử dụng hoặc chuyển giao cho người khác sử dụng các đối tượng SHCN thuộc sở hữu của mình.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Khác với quyền sở hữu thông thường, quyền SHCN bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Về không gian, việc bảo hộ quyền SHCN mang tính lãnh thổ triệt để. Điều này có nghĩa là quyền SHCN chỉ phát sinh trên cơ sở công nhận và cấp Văn bằng bảo hộ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ đã công nhận hoặc cấp văn bằng đó. Việc bảo hộ quyền SHCN trên thế giới đều tuân thủ nguyên tắc pháp luật quốc gia. Quyền SHCN xuất phát từ đặc trưng của đối tượng SHCN - một tài sản vô hình được truyền bá bằng con đường nhận thức nên rất dễ bị xâm phạm, khó kiểm soát. Hơn nữa, việc áp dụng các đối tượng SHCN chủ yếu gắn với quá trình sản xuất công nghiệp, với mục đích thương mại và thỏa mãn

nhu cầu vật chất của con người nên thường mang lại lợi ích lớn, có ảnh hưởng tới sự phát triển của khoa học kỹ thuật và kinh tế xã hội quốc gia. Vì vậy, quyền SHCN mang tính lãnh thổ tuyệt đối.

Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của pháp luật Việt Nam - 3

Về mặt thời gian, quyền SHCN được bảo hộ trong một khoảng thời gian nhất định, vì đối tượng SHCN là các sản phẩm trí tuệ thay đổi nhanh chóng theo tiến bộ khoa học công nghệ, dễ "lạc hậu" so với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Các đối tượng SHCN, đặc biệt là những đối tượng mang lại nhiều lợi ích kinh tế, giảm chi phí trong sản xuất hàng hoá và dịch vụ (sáng chế, giải pháp hữu ích) thường được bảo hộ trong một khoảng thời gian tương đối ngắn (tối đa là 20 năm). Hầu hết pháp luật về SHCN các nước đều qui định thời hạn bảo hộ sáng chế là 20 năm, thời hạn bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá là 10 năm, có thể gia hạn nhiều lần, mỗi lần 10 năm. Hết thời hạn bảo hộ, chủ sở hữu sẽ mất độc quyền cũng như các quyền khác đối với đối tượng được bảo hộ. Các đối tượng này sẽ thuộc về công chúng, họ có quyền tự do khai thác, sử dụng các lợi ích kinh tế do chúng đưa lại. Tuy nhiên, một số đối tượng SHCN như tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu nổi tiếng… được bảo hộ vô thời hạn nhưng các đối tượng đó cũng như chủ sở hữu các đối tượng đó phải đáp ứng một số điều kiện do pháp luật qui định.

Thứ ba, quyền sử dụng

Đối với tài sản hữu hình, trong ba quyền năng của chủ sở hữu (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) thì quyền chiếm hữu dường như là quyền cơ bản và quan trọng nhất. Điều này xuất phát từ các đặc tính của tài sản hữu hình: trong hầu hết các trường hợp, chủ sở hữu phải chiếm hữu tài sản thì mới có thể khai thác công dụng của tài sản đó.

Trong khi đó, đối với quyền SHCN, quyền sử dụng lại được coi là quyền năng cơ bản nhất. Với tài sản là nhãn hiệu quyền này được thể hiện thông qua quyền sử dụng, cho phép người khác sử dụng, ngăn cấm người khác sử dụng và định đoạt nhãn hiệu được bảo hộ nếu không được chủ sở hữu

cho phép. Điều này cũng xuất phát từ tính vô hình của các đối tượng SHCN. Chủ sở hữu không thể chiếm hữu (cầm, nắm, giữ) tài sản. Việc khai thác giá trị quyền được thực hiện thông qua hành vi sử dụng đối tượng SHCN. Bản thân các đối tượng SHCN không tạo ra giá trị mà chúng phải được ứng dụng vào những loại vật chất hữu hình cụ thể và phát sinh giá trị quá trình sử dụng, vận hành, khai thác các loại vật chất hữu hình này. Về bản chất, bảo hộ quyền SHCN là bảo hộ độc quyền khai thác, sử dụng đối tượng SHCN. Ví dụ, đối với nhãn hiệu thì chủ sở hữu nhãn hiệu có thể: tự mình sử dụng nhãn hiệu như gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì, phương tiện dịch vụ, lưu thông, chào bán, quảng cáo, xuất nhập khẩu hàng hóa mang nhãn hiệu; cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu để đổi lấy lợi ích vật chất, chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu cho người khác để đổi lấy lợi ích vật chất.

Như vậy, quyền của chủ sở hữu đối tượng SHCN được thể hiện chủ yếu và cơ bản nhất ở quyền sử dụng đối tượng SHCN.

1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng

1.1.2.1. Khái niệm nhãn hiệu

Nhãn hiệu (Trademark) là một yếu tố đặc trưng gắn liền giữa thị trường thương mại và lĩnh vực SHCN. Nó đã được sử dụng trong một thời gian dài bởi các nhà sản xuất cũng như các thương nhân để xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa hay dịch vụ của họ và phân biệt những hàng hóa, dịch vụ đó với các hàng hóa, dịch vụ được sản xuất hay bán bởi các chủ thể khác. Chức năng phân biệt nguồn gốc của hàng hóa hay dịch vụ của nhãn hiệu được xem là yếu tố quan trọng nhất của nhãn hiệu. Vì vậy, nó luôn đóng vai trò trung tâm và được đề cập đến rất nhiều trong pháp luật về nhãn hiệu của hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Nhãn hiệu đã trải qua một lịch sử phát triển khá dài trong suốt quá trình phát triển của nền thương mại thế giới. Từ thời La Mã cổ đại, việc các nhà sản xuất chạm nổi hay đóng dấu lên các sản phẩm của mình là khá phổ

biến. Đó là một hình thức thể hiện của nhãn hiệu, qua những hình thể chạm nổi hay các con dấu mà họ có thể phân biệt xuất xứ hàng hóa của các nhà sản xuất với nhau [12].

Trên thị trường có rất nhiều người làm ra hoặc bán cùng một loại sản phẩm. Chúng được mang các nhãn hiệu khác nhau. Công chúng căn cứ vào những nhãn hiệu đó để lựa chọn những sản phẩm mà họ sẽ mua. Nếu sản phẩm đó làm vừa lòng họ, sau đó có thể họ sẽ tiếp tục mua chúng bằng cách ghi nhớ nhãn hiệu của sản phẩm. Đồng thời, họ cũng căn cứ vào nhãn hiệu hàng hóa để biết được ai là chủ thực sự của nhãn hiệu đó hay nói cách khác hàng hóa đó do cơ sở sản xuất kinh doanh nào chịu trách nhiệm trên thị trường. Như vậy, không chỉ giúp cho việc cá biệt hóa hàng hóa, dịch vụ, nhãn hiệu hàng hóa còn nhằm phân biệt các cơ sở sản xuất kinh doanh đang cạnh tranh với nhau trên thị trường. Để làm được điều này trong thực tế, "nhãn hiệu hàng hóa cần phải không chỉ khác biệt, mà chúng còn dễ dàng phân biệt được với những nhãn hiệu hàng hóa khác. Nói cách khác, chúng phải có ý nghĩa tự phân biệt" [14].

Nhãn hiệu phải dễ dàng phân biệt được với những nhãn hiệu khác. Để làm được điều này nhãn hiệu hàng hóa phải có tính khác biệt, có nghĩa là nó phải có tính sáng tạo, độc đáo. Vấn đề này được xem là đẳng cấp của nhãn hiệu hàng hóa. Trong thực tế, có những nhãn hiệu hàng hóa có trình độ cao về tính sáng tạo và vì vậy cũng có tính phân biệt cao. Nhưng đa số các nhãn hiệu thường xuất phát từ những thuật ngữ thông thường được sử dụng rộng rãi trong thương mại (ví dụ: Đồng hồ Bảo Tín; Maggi ngon ngon;...). Việc đăng ký, bảo hộ những nhãn hiệu này thường được cân nhắc kỹ về tính phân biệt của nó nhằm tránh gây cản trở cho hoạt động kinh doanh hợp pháp của các chủ thể khác, do đó dẫn tới cản trở cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.

Điều 15 Hiệp định TRIPS qui định nhãn hiệu: "Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc một tổ hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hoàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều

có thể làm nhãn hiệu". Theo đó, bất kỳ một dấu hiệu nào (kể cả màu sắc, mùi vị, âm thanh...) miễn là dấu hiệu để phân biệt được hàng hóa đều có thể coi là nhãn hiệu. Đây cũng là cơ sở để các nước tham khảo trên cơ sở đó theo đặc thù của từng quốc gia có thể đưa ra những khái niệm riêng của quốc gia mình.

Theo định nghĩa của Hiệp hội nhãn hàng thế giới (INTA) thì nhãn hiệu có thể là từ ngữ, tên gọi, biểu tượng, hình ảnh, khẩu hiệu hoặc các hình dạng của bao gói hoặc kết hợp của các yếu tố đó phục vụ cho việc xác định và phân biệt một sản phẩm cụ thể của những chủ thể khác nhau trên thị trường hoặc trong kinh doanh.

Tại Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT năm 2005 thì "nhãn hiệu là những dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau" Dấu hiệu này được bảo hộ nếu được thể hiện dưới dạng từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp giữa các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Hình ảnh trong nhãn hiệu có thể là ảnh, hình vẽ, có thể là hình không gian 3 chiều. Còn từ ngữ có thể là tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa (nhưng phải có khả năng phân biệt với các nhãn hiệu hàng hóa khác), chúng có thể là đen trắng hoặc có màu sắc. Pháp luật Việt Nam không công nhận và bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa chỉ gồm tổ hợp các màu sắc mà không kèm trong đó từ ngữ hay hình ảnh nào.

Nhìn chung, định nghĩa về nhãn hiệu trong pháp luật SHTT Việt Nam và pháp luật SHTT thế giới có sự khác nhau nhất định nhưng đều phản ánh những đặc điểm mang tính bản chất của nhãn hiệu, đó là tạo khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể khác nhau.

1.1.2.2. Khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng

Ngày nay, nhãn hiệu được sử dụng một cách phổ biến hơn với nhiều thể loại hơn. Và nó là một hình thức rất có giá trị của quyền sở hữu trí tuệ bởi vì nó gắn liền với chất lượng cũng như sự mong đợi của người tiêu dùng đối với hàng hóa và dịch vụ.

Nhiều sản phẩm hàng hóa đã trở nên đồng nhất với tên nhãn hiệu của chúng, chẳng hạn như nước giải khát Coca Cola, cà phê Nestcafé, quần Jean Levi’s… Những sản phẩm này thực sự đã trở nên nổi tiếng và được biết đến một cách rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Đây cũng là một thành công quan trọng của các nhà sản xuất và các thương nhân trong việc quảng bá sản phẩm của họ. Tuy nhiên, chính sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa cũng mang lại không ít khó khăn cho các doanh nghiệp vì nó sẽ rất dễ bị xâm phạm bởi các chủ thể khác. Ngày càng có nhiều các hàng hóa và dịch vụ tương tự với những hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng được sản xuất và điều này đã gây ra sự nhầm lẫn của người tiêu dùng trong việc lựa chọn và sử dụng những hàng hóa, dịch vụ thật sự mà họ mong muốn. Vì vậy, một trong những vấn đề quan trọng đặt ra là phải làm thế nào ngăn chặn các hiện tượng xâm phạm đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng như thế. Mặc dù đã được biết đến từ rất lâu, song cho đến hiện nay cách hiểu về nhãn hiệu nổi tiếng (Well- known Mark) vẫn còn đang rất khác nhau trong các điều ước quốc tế cũng như trong pháp luật các nước.

Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã lần đầu tiên đề cập đến nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng tại Điều 6bis:

Một cách mặc nhiên nếu luật quốc gia cho phép điều đó, hoặc theo đề nghị của bên có liên quan, các nước thành viên của Liên minh có trách nhiệm từ chối hoặc hủy bỏ đăng ký, ngăn cấm việc sử dụng nhãn hiệu mà nhãn hiệu đó là sự sao chép, bắt chước, biên dịch và có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được cơ quan có thẩm quyền của nước đăng ký hoặc nước sử dụng coi là nhãn hiệu nổi tiếng tại nước đó của người được Công ước cho hưởng lợi thế sử dụng nhãn hiệu đó trên các loại hàng hóa giống hoặc tương tự. Những quy định này cũng được áp dụng trong trường hợp thành phần chủ yếu của nhãn hiệu là sự sao chép của bất

kỳ nhãn hiệu nổi tiếng nào hoặc sự bắt chước có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đó [11].

Điều 6bis này được hiểu là: Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu của các cá nhân, pháp nhân thuộc các nước thành viên Công ước Paris, có thể đăng ký hoặc chưa đăng ký bảo hộ và được cơ quan có thẩm quyền ở nước đăng ký hoặc sử dụng công nhận. Theo đó, nhãn hiệu nổi tiếng sẽ được các nước bảo hộ như sau: Từ chối việc đăng ký một nhãn hiệu tương tự cho người khác để sử dụng cho cùng sản phẩm hoặc sản phẩm tương tự; hủy bỏ đăng ký một nhãn hiệu tương tự đã cấp cho người khác cho cùng một sản phẩm hoặc sản phẩm tương tự; yêu cầu chấm dứt việc sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng.

Tuy nhiên, những qui định chi tiết như vậy về nhãn hiệu nổi tiếng của Công ước Paris chỉ đề cập đến nhãn hiệu hàng hóa, chưa mở rộng phạm vi bảo hộ đối với cả nhãn hiệu dịch vụ nổi tiếng.

Theo Hiệp định TRIPS:

Để xác định một nhãn hiệu hàng hóa có nổi tiếng hay không các thành viên phải chú ý đến sự nhận biết nhãn hiệu hàng hóa đó trong một bộ phận công chúng liên quan, kể cả sự nhận biết về nhãn hiệu hàng hóa đó tại nước thành viên tương ứng đạt được nhờ quảng cáo nhãn hiệu hàng hóa đó [18].

Như vậy, qui định này có nghĩa là việc xác định nhãn hiệu nổi tiếng tùy thuộc vào hệ thống đánh giá (nếu có) của từng quốc gia, đánh giá sự nổi tiếng của nhãn hiệu phải được tiến hành ở quốc gia thành viên có liên quan.

Theo qui định của pháp luật Việt Nam, tại Nghị định số 06/2001/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 63/NĐ-CP quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp (Điều 2 khoản 8 mục b) thì nhãn hiệu nổi tiếng được định nghĩa như sau: "Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng liên tục cho sản phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu được biết đến một

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/11/2022