nào đó. Vì Internet là tương tác, nó động viên phát triển tất cả các hình thức tương tác mới. Phần mềm được phân phối và thử nghiệm trực tuyến, thông tin được trao đổi và thay đổi dễ hơn, dữ liệu được bảo đảm trực tuyến và các tổ chức ảo có thể hoạt động hiệu quả hơn thông qua tương tác toàn cầu trong bất kỳ thời gian nào trong ngày. Tốc độ chủ yếu tố cần đặc biệt nhấn mạnh trong thương mại điện tử. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp dựa trên Internet ( các doanh nghiệp Dot Com) đã phát triển trên cơ sở hạ tầng đang tồn tại. Nền kinh tế Dot Com ra đời đã làm giảm chi phí khởi sự và thời gian cần thiết để phát triển doanh nghiệp.
Vì Internet cung cấp một kênh phù hợp, nhanh chóng cho nghiên cứu, làm việc, truyền thông, thay đổi và lựa chọn thông tin, nên thương mại trên Internet hiện nay cho phép các doanh nghiệp xem xét lại chức năng nào doanh nghiệp nên tự thực hiện, và chức năng nào nên uỷ thác cho bên ngoài. Hãng Forrester Research đã sáng tạo ra thuật ngữ “ người cung ứng ngoại nguồn” và định nghĩa “người cung ứng ngoại nguồn” là người cung ứng các dịch vụ hỗ trợ, quản lý các quá trình và công nghệ đa công ty qua Internet. ở Ôxtraaylia, công ty Com Tech và Iternet Security Systems đã thành lập một doanh nghiệp cung ứng dịch vụ chống virus và chống tin tặc, quản lý định tuyến và bức tường lửa, lọc nội dung và phân tích đăng ký hàng tháng. Các mối quan hệ mới đang được thiết lập định hướng và khích lệ các quá trình thuộc chuỗi cung ứng. Những công ty như FedExpess và UPS nhận thấy vai trò của họ như các trung gian hậu cần đang được mở rộng, và vấn đề thiết thực là làm thế nào để hàng hoá trực tuyến được phân phối nhanh chóng. American Express là ví dụ về một trung gian tài chính, hiện đang cung cấp thẻ mua hàng và hỗ trợ mua hàng trực tuyến bằng cách tạo thuận lợi cho quá trình đặt hàng, thực hiện, điều phối, quản lý dữ liệu và bảo trì chương trình. Các thay đổi trong quá trình này có thể dẫn tới tiết kiệm chi phí đáng kể.
Sự thay đổi nhanh chóng chính là điều bất di bất dịch duy nhất trong thế giới hôm nay. Các công ty trong tất cả các ngành sẽ phải lo lắng về tương lai phát triển của mình trong thế kỷ XXI, nếu như họ bắt đầu với mức thu nhập trực tiếp từ các kênh thương mại điện tử nhỏ hơn 25% ( so với tổng thu nhập). Các công ty thất bại trong việc gia nhập công đồng kinh doanh trực tuyến có thể bị bỏ lại phía sau và mất đi một phương tiện kinh doanh hiệu quả trong thế kỷ tới.
David Jonas, Giám đốc kinh doanh của công ty ETC ( Electronic Trading Concepts), đã phác hoạ một vài xu hướng phát triển của Thương mại điện tử trong 2 đến 3năm tới như sau:
- Internet sẽ tiếp tục phát triển theo cấp số mũ trên các phương diện số người sử dụng, số site, băng tần, khối lương thương mại và phổ biến thông tin;
- Tiếp tục định hình lại doanh nghiệp, ngành công nghiệp và ngay cả nền kinh tế quốc dân trên toàn cầu thông qua việc phá vỡ các rào cản, các chuỗi giá trị truyền thống, và phổ biến chúng thành các mạng giá trị, tạo thuận lợi cho việc tạo dựng các doanh nghiệp mới, củng cố các liên minh và các cộng đồng ảo, vượt qua các biên giới quốc gia;
- Thời gian tăng lên của các nhà lập pháp và quan chức chính phủ sẽ giành cho việc giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội phức tạp, và điều đó làm tăng tốc độ phát triển của xã hội thông tin, nhiều vấn đề trong số đó sẽ được xã hội giải quyết trên cơ sở liên quốc gia hoặc quốc tế.
Dưới đây chúng ta sẽ đề cập tới một số mô hình kinh doanh số hoá, phác thảo một xu hướng mưói trong phát triển thương mại Internet trong thế kỷ XXI, mối quan tâm của chính phủ tới toàn cầu hoá kinh tế,....
1. Nền kinh tế Dot Com
Các công ty Dot Com đang hình thành ở nhiều nơi trên thế giới. Một cuộc cách mạng kinh tế đang xuất hiện trong mọi ngành công nghiệp, từ lớn đến nhỏ. Các công ty đang kết hợp công nghệ Internet với marketing tích cực nhằm cạnh tranh với các công ty được thành lập trước khi có Web. Các công ty lớn quá quan tâm đến các vấn đề cũ của họ và quá chậm chạp trong cuộc cạnh tranh với nền kinh tế Dot Com mới. Một ví dụ kinh điển là phản ứng của công ty Bares and Noble trước Amazon. Các nhà sáng lập của các công ty Dot Com mới này tin rằng, họ có thể sử dụng chữ cái “ e” trong e- business ( kinh doanh điện tử), hoặc “m” trong mobile e- commerce ( thương mại điện tử di động), hoặc “w” trong wireless e-commerce ( thương mại điện tử vô tuyến) để tạo lập ragiá trị mới cho người tiêu dùng và mang lại lợi ích cho người đầu tư trước khi các công ty lớn. truyền thống nắm bắt được cơ hội này.
Một vài phân tích dự đoán rằng, khi các công ty lớn chậm chạp, nhận thức được các nỗ lực đòi hỏi để khởi sự kinh doanh điện tử, thì họ sẽ đuổi kịp các công ty Dot Com. Các công ty Dot Com này có lưọi thế bởi sự linh hoạt, mềm dẻo, có cách tiếp cận dựa trên nguồn kinh doanh rủi ro, đồng thời có thể đem đến cơ hội cho nhân viên của họ nhanh chóng kiếm được nhiều tiền. Tuy nhiên, làn sóng thành công tiếp theo sẽ đến với những ai có thể đem đến được cho các nhà kinh doanh và khách hàng một chuỗi cung ứng liên tục qua mạng thương mại điện tử toàn cầu.
2. Vấn đề trung gian kinh doanh
Trong thương mại điện tử, xảy ra các quá trình phi tập trung hoá và tái trung gian hoá. Học thuyết thương mại điện tử thời kỳ đầu cho rằng, chức năng thương mại của Internet đơn giản là cắt bỏ các khâu trung gian, cho
phép các công ty thiết lập website có thể bán hàng trực tiếp đến khách hàng của mình, bỏ qua các trung gian. Website Meetchina.com với cơ sở dữ liệu về các nhà sản xuất, cho phép các khách hàng nước ngoài có thể nhận được trực tuyến các mô tả hàng hoá, các tài liệu trích dẫn, và do vậy có thể mua hàng trực tiếp từ Trung Quốc.
Giai đoạn phát triển tiếp theo cho thấy thương mại điện tử tạo nên sự ra đời của các tầng lớp trung gian kinh doanh hoàn toàn mới. Hãng Forrester Rearch phân nhóm các hoạt động kinh doanh mới này thành 3 loại: những nhà kết tập ( aggregator), bán đấu giá ( auction) và trao đổi (exchange).Các hoạt động này hướng tới mục đích khắc phục tính thiếu hiệu quả của thị trường và tạo ra các cơ hội kinh doanh khác nhau:
Bảng 10. Các hoạt đông kinh doanh mới
Mục đích | Chiến lược/ưu thế | Thí dụ | |
Thành lập các | Nội dung cung ứng được | www.supplysearch.com.au | |
công đồng doanh | tổng hợp nhằm tạo ra phạm | www.meetchina.com | |
Kết | nghiệp | vi rảo chợ một bước, với giá | |
tập | cả định trước của công | ||
đồng doanh nghiệp dành | |||
cho người mua | |||
Tạo lập thị trường | Người bán và người mua | www.gofish.com.au | |
và giảm chi phí | được động viện tham gia | www.stuf.com.au | |
Đấu | của người bán | đồng thời vào nhiều hoạt | www.priceline.com |
giá | động đấu giá trong thời gian | ||
thực, không có sự đổ dồn | |||
tìm kiếm và chi phí đi lại |
Có thể bạn quan tâm!
- bảo hiểm rủi ro trong thương mại điện tử - 2
- Các Loại Hình Giao Dịch Trong Thương Mại Điện Tử
- Thương Mại Điện Tử Giúp Doanh Nghiệp Nâng Cao Khả Năng Cạnh
- Rủi Ro Trong Thương Mại Điện Tử Có Nguồn Gốc Khách Quan:
- Ảnh Hưởng Của Rủi Ro Trong Thương Mại Điện Tử
- Rủi Ro Có Thể Làm Hạn Chế Hiệu Quả Trong Kinh Doanh:
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
như trong thế giới thực | |||
Cung cấp một sân | Chi phí của thị trường trực | www.telegeography.com | |
Trao | chơi với các luật lệ | tuyến trong ngành công | www3..mids.ogrg |
đổi | rõ ràng, thông | nghiệp chỉ bằng một phần | |
tin thị trường mở | chi phí trong thế giới thực | ||
cho những người | |||
tham gia được | |||
định trước |
Hai mô hình trung gian kinh doanh đặc thù trong thương mại điện tử được nói nhiều tới là cổng chung và nhà kết tập.
Các cổng chung ( Portal) trong thương mại B2B xuất phát từ các cộng đồng ảo doanh nghiệp. Trong lĩnh vực kinh doanh, các công chung tập trung vào việc tập hợp thông tin của các nhóm quyền lợi riêng biệt có liên quan tới các công đồng kinh doanh trực tuyến theo chiều dọc. Chemdex.com là một ví dụ về cổng chung công nghiệp đặc trưng, nó cho phép các nhân viên phòng thí nghiệm tìm kiếm một catalog lớn các sản phẩm hoá học của nhiều nhà cung ứng khác nhau.
America Online, Yahoo và RealEstat đang biến đổi từ cổng chung trở thành nhà tập kết (aggregator), mang lại cho hàng triệu người tiêu dùng các sản phẩm bảo hiểm rẻ hơn Visa Card. Chiến lược của Citybank dựa trên cơ sở tập hợp một tỷ khách hàng.
Sự cạnh tranh hợp tác có thể sẽ tiếp tục thể hiện như một mô hình hoạt động của nền kinh tế mới. Với các mô hình của nền kinh tế mạng mới như cổng chung, phố chợ ảo hiện đại, Internet đã thành công khi đem lại cho người tiêu dùng nhiều lợi ích như: mua hàng được rẻ hơn, nhanh hơn, và có thể mua được tất cả hàng hoá và sử dụng dịch vụ ở một nơi.
Trao đổi kinh doanh ( business exchanges), cụ thể là trong giới kinh doanh tài chính, đang được thiết lập. Charles Schwab và Fidelity đã hợp tác để xây dựng một mạng thương mại điện tử rộng lớn ( gọi là ECN). Mạng này sẽ hoạt động như thị trường chứng khoán. Trong tương lai, mạng ECN toàn cầu sẽ cho phép dân chúng mọi nơi mua và bán sản phẩm tài chính 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần. John Du Pre Gauntt đưa ra ý tưởng rằng, băng thông( bandwidth), nếu như được chấp nhận là chi phí kinh doanh, cần phải được tư bản hoá và mua bán. Đó có một số hãng, như Arbinet (www.arbinet.com), Band – X(www.bank- x.com) và RateXchange ( www.rateXchange.com), đã bắt đầu mua bán trao đổi băng thông.
3.Mua bán đấu giá trực tuyến
Mua bán đấu giá trực tuyến đã thay đổi bộ mặt của thương mại điện tử. Trong nhiều trường hợp chúng là các hình thức kinh doanh bổ sung đối với các nhà bán lẻ, một phương thức tương tác khác với người mua. Các site đấu giá trực tuyến đã xác định lại hoạt động kinh doanh đối với người sưu tầm, người mua bán lại, người tiêu dùng và các hãng vận tải. Chúng có thể thiết lập thị trường quốc tế liên kết giữa khắp các cá nhân kể trên ở khắp các châu lục trong cộng đồng quyền lợi. Người dân Mỹ có thể bán đấu giá trực tuyến các bộ phận sưu tập tạp chí, như Saturday Evening Post và tìm thấy người mua tại Nhật Bản.
Người khổng lồ của mua bán đấu giá trực tuyến – eBay - đã thu hút 84 triệu cú “ nhắp chuột” của các khách mua hàng trên những trang Web của mình trong quý I năm 1999. Họ chỉ thua sau Yahoo về số phút mà khách hàng viếng thăm đã chi phí khi thăm viếng site của họ. Sử dụng mô hình kinh doanh, khi mà những người bán hàng trả chi phí cho site, eBay luôn thu
hút được lợi nhuận, mặc dù công ty không tiến hành mua bán hàng hoá. Bất kỳ ai bán đấu giá đều phải trả cho eBay một khoản chi phí nhất định, ngoài ra còn phải trả một lượng phần trăm trên doanh số bán hàng. Priceline.com là một mô hình bán đấu giá trực tuyến theo kiểu “ hãy nói giá của anh”. Mô hình này cho phép người mua đưa ra giá cao nhất đối với vé máy bay, sau đó kiểm tra xem các tuyến bay chính có bán vé theo giá định mua hay không. Kết quả của mua bán đấu giá định hướng người tiêu dùng có thể được phổ biến sang mua bán đấu giá trong thương mại B2B. Trong mô hình này, các công ty bán hàng tồn kho và hàng hoá dư thừa, mhư điện năng hoặc thiết bị y tế, cho những thương gia được mời đến hoặc các đối tác được chọn lọc trước.
Những người mua bán đấu giá trực tuyến đang được mở rộng tồn kho của họ bao gồm rất nhiều loại hàng hoá để thu hút khách hàng quay trở lại. Các nhà mua bán đấu giá động vật sống thuộc Cattle Offerings Worldwide ( COW) đã chuyển sang mua bán đấu giá từ năm 1995. Các nhà bán đấu giá trực tuyến mở rộng hoạt động của họ thông thường với sự hợp tác của các đối tác trên Internet.
Mua bán đấu giá trực tuyến không phải chịu nhiều áp lực từ phía các cơ quan quản lý, cung như từ phía các tổ chức, nhóm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, lĩnh vực kinh doanh mới này trên Internet phải giải quyết nhiều yếu tố mang tính cạnh tranh, như sự lừa đảo, đánh thuế và mua bán các mặt hàng nằm trong diện phải quản lý, từ rượu vang cho tới vũ khí, trước khi trở thành một thực thể tồn tại thường xuyên.
4.Cổng thông tin doanh nghiệp ( EIP - Enterprice Information Portal)
Mạng nội bộ công ty ( Internet), được gọi là cổng thông tin doanh nghiệp, được sử dụng để quản lý tri thức trong nội bộ tổ chức. Những người sử dụng Internet đã quen với giao diện trình duyệt Web, do vậy mạng nội bộ công ty sử dụng cùng một mô hình như vậy để phân phối thông tin tới các nhân viên của họ. Mạng nội bộ công ty đôi khi còn được gọi là cổng tri thức kinh doanh ( BIP – Business Intelligence Portal). Thách thức đối với mạng nội bộ công ty là quản lý tri thức trong nội bộ tổ chức. Một site mạng nội bộ công ty có thể bao gồm một công cụ tìm kiếm bao phủ toàn bộ mạng nội bộ, phân loại thông tin các nguồn tin mới trên site, liên kết tới các site nội bộ và các website thông dung bên ngoài. Mạng nội bộ công ty có thể giúp cung cấp một khuôn khổ cho dữ liệu, biến thông tin thành tri thức sao cho các nhân viên công ty có thể sử dụng.
Người sử dụng có thể đăng ký, thiết kế, thiết lập, hợp tác, công bố và phân phối thông tin một cách có hiệu quả trên cổng thông tindoanh nghiệp.
5. Nguyên lý mới của marketing trên Internet
Thế giới mạng đang viết lại các quy tắc về vấn đề xây dựng lại các công ty, tiếp thị các sản phẩm ( marketing điện tử) và tạo ra giá trị. Cái gọi là hiệu ứng mạng là cơ sở cho một cách tiếp cận đối với kinh doanh marketing, bao gồm các thị trường khác nhau, các mô hình kinh doanh khác nhau và các chiến lược kinh doanh hoàn toàn khác nhau.
Một ví dụ kinh điển là Hotmail, giờ đây là một phần của Microsoft, đã được khai trương vào tháng 7 – 1996 . Hotmail đã có 12 triệu người đăng ký sau 18 tháng hoạt động. Năm 1999, với 50 triệu người đăng ký sử dụng, Hotmail đã trở thành dịch vụ thư điện tử dựa trên cơ sở Web lớn nhất trên Internet. Ví dụ về Hotmail đã được nhiều người biết tới, và hiện tượng marketing điện tử do Hotmail tạo nên hiện nay được biết đến như marketing