Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 5

công dân là một trong những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền. Quan hệ giữa Nhà nước với công dân, mà cụ thể hơn là quan hệ giữa cơ quan, người tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng nói chung, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng là thể hiện rò nhất tính chất dân chủ trong xã hội, trong quá trình TTHS. Tăng cường trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng, quyền của người tham gia tố tụng là điều kiện rất quan trọng để đảm bảo QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS.

Bên cạnh đó,việc đảm bảo tổ chức hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng là một trong những yêu cầu quan trọng góp phần đảm bảo QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS. Cùng với việc cải cách bộ máy của mình, trong những năm qua, các cơ quan tố tụng đã được điều chỉnh dần từng bước về cơ cấu, tổ chức.

Đối với VKSND: Theo quy định của Hiến pháp 2013 ở nước ta, VKS là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hoạt động của VKS có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động TTHS. Vì vậy, đảm bảo về tổ chức và hoạt động của VKS nhằm đảm bảo chức năng, thẩm quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS và thực hiện quyền công tố chính là cơ sở để đảm bảo QCN, quyền công dân trong TTHS đồng thời hạn chế được vi phạm QCN từ phía người tiến hành tố tụng. Để đạt được yêu cầu trên việc đổi mới về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của cơ quan VKSND là một yêu cầu tất yếu. Vì thế, yêu cầu đặt ra là là cơ cấu, tổ chức và hoạt động của cơ quan VKS phải sát hợp với chức năng nhiệm vụ được giao, kiểm sát viên phải hội tụ đủ trình độ chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ, có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức và công tâm trong việc thực hiện chức năng của mình.

Cơ cấu tổ chức của VKSND năm 2014 có một số điểm mới cơ bản, một trong số đó phải kể đến đổi mới hệ thống VKSND theo thẩm quyền xét xử của Toà án, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, tạo cơ sở pháp lý để xây dựng tổ chức bộ máy VKSND các cấp theo hướng chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu mở rộng thẩm quyền [Sơ đồ 1.1 Phụ lục]. Theo đó, thì hệ thống VKSND gồm có:

- VKSND tối cao

- VKSND cấp cao

- VKSND cấp tỉnh

- VKSND cấp huyện

- Viện kiểm sát quân sự

Đối với TAND: TAND là nơi phán quyết tất cả các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ pháp lý của những người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến lĩnh vực tố tụng. Yêu cầu đặt ra là bộ máy của TAND phải hoàn thiện, hoạt động nhanh nhạy đúng chức năng, thẩm quyền, đội ngũ Thẩm phán phải đảm bảo đủ về số lượng, có năng lực chuyên môn, thông thạo nghiệp vụ và có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

Cũng giống như VKSND , cơ cấu tổ chức của TAND cũng có sự thay đổi [Sơ đồ 1.2 Phụ lục]. Theo đó, Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định hệ thống tổ chức Tòa án ở nước ta gồm:

- TAND tối cao.

Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 5

- TAND cấp cao.

- TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

- TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.

- Tòa án quân sự.

Đối với Cơ quan điều tra: Ở nước ta, Cơ quan điều tra là một bộ phận không thể thiếu được của TTHS, là một trong ba cơ quan nhà nước thực hiện TTHS theo quy định của pháp luật. Đó là cơ quan trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập, củng cố, chứng minh các chứng cứ nhằm xác minh sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở cho việc truy tố bị can ra trước Tòa án. Hoàn thiện về cơ cấu, tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra để cơ quan này nhạy bén kịp thời trong việc đối phó các tình huống mới nảy sinh trong thực tế hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm, thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, là yêu cầu mang tính nguyên tắc.

Để đạt được mục tiêu đó, cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều

tra phải sát hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, đội ngũ điều tra viên phải được đào tạo đầy đủ về chuyên môn, tinh thông về nghiệp vụ, có bản lĩnh nghề nghiệp, có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt nhằm thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của người điều tra là kịp thời phòng và chống tội phạm đồng thời đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can trong hoạt động tố tụng của mình. Đồng thời phải phối hợp củng cố nhà tạm giữ, tạm giam có đủ những điều kiện cho hoạt động phòng và chống tội phạm cũng như đáp ứng yêu cầu đảm bảo quyền của người bị tạm giữ.

Mô hình tổ chức của CQĐT ở nước ta đã được xây dựng vào những năm đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và nó được hoàn thiện dần trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm. Theo quy định của BLTTHS và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự thì hệ thống CQĐT bao gồm:

- Trong ngành công an:

+ CQĐT thuộc Lực lượng Cảnh sát nhân dân, hệ thống này được tổ chức ở 3 cấp là Bộ, tỉnh, huyện. Ở Bộ Công an có Cục cảnh sát điều tra; ở công an cấp tỉnh có Phòng cảnh sát điều tra và ở công an cấp huyện có Đội cảnh sát điều tra.

+ CQĐT thuộc Lực lượng An ninh nhân dân được tổ chức ở cấp bộ và tỉnh. Ở Bộ công an có Cục điều tra an ninh và ở công an cấp tỉnh có Phòng điều tra an ninh.

- Trong quân đội nhân dân:

+ CQĐT hình sự quân đội được tổ chức ở 3 cấp theo tổ chức của quân đội là Cục điều tra hình sự ở Bộ quốc phòng; Phòng điều tra hình sự ở Bộ tổng tham mưu các tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân chủng và Ban điều tra hình sự ở binh chủng, bộ chỉ huy quân sự tỉnh và cấp tương đương.

+ CQĐT an ninh quân đội được tổ chức ở 2 cấp: ở Bộ quốc phòng có Cục điều tra an ninh và ở cấp quân khu có Phòng điều tra an ninh.

- Trong hệ thống Viện kiểm sát:

+ VKSND tối cao có Cục điều tra hình sự.

+ CQĐT của Viện kiểm sát quân sự Trung ương có Phòng điều tra.

- Quy định các biện pháp ngăn chặn (bắt, tạm giữ, tạm giam) trong TTHS. Đặc biệt, chú trọng đến thẩm quyền (áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp), căn cứ

áp dụng, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế tố tụng được người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị nghi thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo khi có đủ căn cứ luật định nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [5, tr.69]. Là những biện pháp cưỡng chế, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn có liên quan rất lớn đến QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; đặc biệt là các quyền bất khả xâm phạm về thân thể, các quyền tự do dân chủ khác. Bởi vì, trong TTHS, chỉ có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những đối tượng duy nhất bị áp dụng biện pháp ngăn chặn. Quy định và áp dụng biện pháp ngăn chặn đúng thẩm quyền, đúng căn cứ, đúng thủ tục và đúng thời hạn… là những đảm bảo quan trọng cho việc bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Khi công tố quyền được phát động, để tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng phát hiện, xử lý tội phạm, pháp luật cho phép họ được áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong đó hạn chế một số quyền tự do của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, sự hạn chế tự do của người bị buộc tội phải đảm bảo nguyên tắc pháp chế, tránh sự lạm quyền. Pháp luật TTHS Việt Nam quy định khá chặt chẽ các căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú… cũng như các biện pháp cưỡng chế TTHS khác như khám người, khám chỗ ở, tịch thu thư tín…. Tất cả các biện pháp cưỡng chế TTHS trên đòi hỏi các cơ quan THTT không được áp dụng tùy tiện, lạm dụng mà chỉ được thực hiện khi có căn cứ và theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Xu hướng chung của TTHS văn minh là hạn chế ở mức thấp nhất việc áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam đồng thời mở rộng các biện pháp khác “mềm” hơn như đặt tiền, bảo lãnh… Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế TTHS đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng vừa đảm bảo nhiệm vụ phát hiện, xử lý tội phạm, vừa không xâm phạm đến QCN của những người bị bị hạn chế quyền tự do. Điều quan trọng là cần có chế tài nghiêm khắc xử lý những hành vi bắt tạm giữ, tạm giam quá mức cần thiết hoặc chế tái pháp luật của những người THTT.

- Quy định các thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử từ góc độ QCN để các thủ tục đó không xâm phạm quyền công dân cũng như bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án dân chủ, công khai, khách quan. Là cách thức, trình tự thực hiện hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thủ tục tố tụng một mặt bảo đảm cho hoạt động tố tụng tiến hành được chính xác, khách quan; mặt khác để các hoạt động đó không hạn chế quyền tố tụng của người tham gia tố tụng nói chung, của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng. Bởi vì, ngay trong các hoạt động tố tụng (như lấy lời khai, khám xét, thu giữ vật chứng, tài liệu, đồ vật…) đã chứa đựng yếu tố cưỡng chế. Quy định thủ tục tố tụng chặt chẽ tức là đã giới hạn để người tiến hành tố tụng thực hiện những hành vi tố tụng được BLTTHS quy định, từ đó tránh được việc xâm phạm QCN.

Hai là, bảo đảm trình độ nhận thức, năng lực chuyên môn và ý thức pháp luật, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng

Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi xây dựng được một đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung và người tiến hành tố tụng nói riêng tận tâm, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ là rất cần nhằm bảo đảm QCN nói chung và QCN trong TTHS nói riêng.

Bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phụ thuộc rất nhiều vào sự hoàn thiện của các quy định pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, dù pháp luật có quy định cụ thể đến đâu thì hiệu quả của nó phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm, nhận thức của người áp dụng pháp luật trong từng trường hợp cụ thể trong thời gian tới cần đảm bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng cán bộ tư pháp để có thể đủ sức đảm đương những công việc khó khăn và phức tạp.

Con người bao giờ cũng là nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng mọi hoạt động. Muốn bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS, hạn chế được oan sai, giải quyết bồi thường thoả đáng phải nâng cao trình độ chuyên môn pháp luật cho người tiến hành tố tụng, đồng thời phải không ngừng trau dồi nhân cách, trong đó vấn đề giáo dục lương tâm và ý thức về uy tín nghề nghiệp phải được đặt lên hàng đầu; thực hiện tốt chế độ báo cáo đối với cơ quan có thẩm quyền

và trước nhân dân thông qua cơ quan đại diện của họ tại địa phương (ở mức độ cho phép nếu không làm ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án); đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám sát của cơ quan có thẩm quyền và của nhân dân.

Những người tiến hành tố tụng phải thực hiện đúng quy định pháp luật trong qúa trình giải quyết vụ án hình sự, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định trong BLTTHS. Họ là những người tiến hành tố tụng, do đó phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của TTHS. Đặc biệt là các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân gồm: Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo và quyền được bồi thường thiệt hại của công dân trong TTHS; nguyên tắc dùng tiếng nói, chữ viết trong TTHS.

Trên cơ sở quán triệt tinh thần cải cách tư pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp, cần tập trung đào tạo những cán bộ giỏi, chuyên sâu trong từng lĩnh vực để có nhiều chuyên gia giỏi, khắc phục tình trạng chất lượng cán bộ còn yếu kém như hiện nay. Đồng thời, cần nâng cao sự phối hợp giữa các cơ quan THTT nhất là giữa ĐTV và KSV trong việc tạm giữ, tạm giam, kịp thời tháo gỡ khó khăn, phát huy trí tuệ tập thể để có đường lối giải quyết đúng với quy định pháp luật.

Ba là, bảo đảm thông qua hướng dẫn áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

Trong TTHS, bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không chỉ đơn thuần bằng các biện pháp pháp lý. Khi đã có những quy định pháp luật, việc thực hiện các quy định đó lại phụ thuộc vào từng con người cụ thể. Vì vậy, còn phải chú trọng đến các biện pháp tổ chức, biện pháp giáo dục đối với các cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng để họ thấy rò nghĩa vụ, trách nhiệm của mình khi tiến hành các hành vi tố tụng khác nhau.

Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là một phương pháp hiệu quả

nhằm nâng cao hiểu biết của người dân về kiến thức pháp luật. Điều này một mặt giúp người dân tự ý thức và tuân thủ pháp luật,tự bảo vệ những lợi ích chính đáng của bản thân và lợi ích chung của xã hội, mặt khác giúp cơ quan THTT nhanh chóng phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời đối với những hành vi phạm tội. Thực tiễn cho thấy, phần lớn nhân dân do thiếu hiểu biết pháp luật mà nhất là pháp luật TTHS nên đôi khi còn có thái độ tiêu cực trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Hay do sợ mất thời gian, sợ liên lụy tới pháp luật, sợ bị trả thù… nên không tích cực vào việc tố giác tội phạm. Thậm chí có những người vì những lý do cá nhân khác nhau mà cung cấp thông tin thiếu chính xác, sai sự thật gây khó khăn cho cơ quan THTT. Bởi vậy, công tác tuyên truyền giáo dục cho nhân dân là rất cần thiết và cần được thực hiện bằng nhiều hình thức như: Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các tổ chức đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị, xã hội, thông qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật dưới dạng sân khấu hóa, thông qua các phiên tòa xét xử nhất là các phiên tòa xét xử lưu động,,, và đặc biệt quan tâm hơn nữa công tác giáo dục pháp luật từ các cấp trong trường học để tạo thói quen và tạo ý thức tôn trọng pháp luật.

Đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cần phải được thường xuyên giáo dục chính sách, pháp luật, nội quy nhà tạm giữ, trại tạm giam, quy chế về tạm giữ, tạm giam nhằm nâng cao nhận thức cho người bị tạm giữ, tạm giam, hạn chế đến mực thấp nhất việc họ có thể phạm tội mới ở nhà tạm giữ, tạm giam, đồng thời nâng cao hiểu biết để họ tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân.

Và cuối cùng, phải động viên tích cực quần chúng nhân dân tham gia vào nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó, kiểm tra giám sát các hành vi của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng để đảm bảo quyền QCN cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Bốn là, bảo đảm xử lý vi phạm, khắc phục kịp thời các hậu quả của vi phạm quyền con người do hoạt động tố tụng hình sự gây ra

Pháp luật nước ta ở các mức độ khác nhau quy định về việc xử lý các vi

phạm QCN. Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, pháp luật quy định các biện pháp pháp lý tương ứng như xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính, buộc phải bồi thường và cao nhất là trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm. Ví dụ: BLHS nước ta có các chương riêng quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự con người, quy định các tội xâm phạm các QCN; ngoài ra, các tội phạm xâm phạm QCN cũng được quy định ở các chương khác của BLHS. Đồng thời với các biện pháp xử lý trên, trong tố tụng các vi phạm làm hạn chế các quyền, lợi ích của công dân thông thường được coi là các vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và là một trong những căn cứ để cơ quan tố tụng có thẩm quyền hủy bỏ kết quả hoạt động tố tụng trước đó để tiến hành lại hoặc buộc phải tiến hành các hoạt động tố tụng bổ sung. Một vấn đề cần đặc biệt lưu ý trong hoạt động lập pháp về QCN là cần xem xét đến các quy định của pháp luật quốc tế về QCN mà nước ta đã tham gia.

Một trong những bảo đảm quan trọng cho việc tôn trọng và bảo vệ các QCN là việc phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm các quyền đó. Liên quan đến việc xử lý các vi phạm QCN bao gồm các biện pháp: Quy định cụ thể các hành vi vi phạm và chế tài đối với hành vi đó; tổ chức xử lý các hành vi vi phạm QCN; tổ chức thi hành các quyết định xử lý vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền; trong đó bao gồm cả thi hành các biện pháp xử phạt được quyết định và phục hồi quyền, lợi ích hoặc bồi thường thiệt hại cho công dân.

Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, các biện pháp xử lý bao gồm:

- Xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức;

- Xử phạt hành chính;

- Bồi thường thiệt hại và phục hồi quyền, lợi ích bị xâm hại;

- Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng QCN được BLHS quy định là tội phạm.

Việc xử lý nghiêm minh, có hiệu quả các vi phạm QCN đòi hỏi một cơ chế tố tụng cụ thể, công khai, khách quan. Hiện nay, việc xử lý các vi phạm QCN được thực hiện bằng biện pháp tổ chức, bằng thủ tục hành chính và bằng thủ tục tố tụng tư pháp. Trong đó, có thể nói, việc tiến hành xử lý các vi phạm theo thủ tục tố tụng

Xem tất cả 143 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí