Quyền Hạn,nghĩa Vụ. Trách Nhiệm Của Người Tiến Hành Tố Tụng Hình Sự

tự nguyện. Để thu thập thì cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp khác để thu thập.

Nếu người bị tạm giữ xét thấy việc tạm giữ và những quyết định khác có liên quan đến việc bắt giữ cũng như những hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là không đúng pháp luật thì có quyền khiếu nại.

Quyền của bị can

Bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tồi gì. Khi cơ quan ra quyết định khởi tố bị can thì phải giao quyết định khởi tố cho bị can và được giải thích về tội danh, về quyền và nghĩa vụ của họ. Nếu có sự thay đổi hay bổ sung quyết định khởi tố, bị can cũng phải được thông báo.

Nếu bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn thì họ có quyền được giao quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn. Việc giao các quyết định này để họ biết được việc áp dụng biện pháp ngăn chặn là đúng hay sai từ đó có quyết định khiếu nại hay không khiếu nại đối với quyết định đó.

Quyền được trình bày lời khai, đưa ra đồ vật, tài liệu và yêu cầu: Bị can có quyền đưa ra những số liệu, tài liệu để chứng minh, mình không có tội hoặc những tình tiết, lý do giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Có quyền đưa ra các yêu cầu như yêu cầu trưng cầu giám định, lấy lời khai và mời thêm người làm chứng, thu thập vật chứng. Cơ quan điều tra phải xem xét nghiên cứu các chứng cứ khác để tìm ra sự thật khách quan.

Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người giám định nếu có căn cứ cho rằng họ sẽ không vô tư trong khi làm nhiệm vụ: Các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét giải quyết vấn đề này để đảm bảo vụ án được giải quyết khách quan và cũng tránh sự lợi dụng của bị can để cản trở hoạt động điều tra.

Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa: Bị can có thể tự bào chữa cho mình hoặc nhờ người khác bào chữa (luật sư, bào chữa viên nhân dân...). Đối với các trường hợp bị can là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần hay người bị truy cứu về tội có khung hình phạt ở mức độ cao nhất là tử hình thì Cơ quan điều tra phải yêu cầu người bào chữa cho họ nếu họ không tự

nhờ người bào chữa. Nếu họ không đồng ý người bào chữa thì cơ quan tiến hành lập biên bản về việc này và không cần người bào chữa trong quá trình tố tụng.

Quyền nhận bản kết luận điều tra sau khi kết thúc điều tra, nhận quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng và quyết định truy tố sau khi Viện kiểm sát truy tố cũng như các quyết định tố tụng khác: Khi được nhận các quyết định này, bị can sẽ biết được kết quả của quá trình điều tra, truy tố trên cơ sở đó chuẩn bị cho việc bào chữa hoặc khiếu nại đối với các quyết định đó.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

Quyền khiếu nại đối với các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Khi xét thấy quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với mình là không đúng hoặc có căn cứ xác định hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng là trái pháp luật thì bị can có quyền khiếu nại.

Quyền của bị cáo

Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 9

Quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử: Chậm nhất 10 ngày trước ngày mở phiên toà bị cáo phải được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bị cáo được nhận quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác có liên quan.

Quyền được tham gia phiên toà: Việc tham gia phiên toà của bị cáo vừa là quyền vừa là nghĩa vụ bắt buộc của bị cáo. Tại phiên toà bị cáo bình đẳng với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác trong việc đưa ra chứng cứ, những yêu cầu về tranh luận tại phiên toà. Bị cáo chỉ được xử vắng mặt tại phiên toà trong những trường hợp luật định (bị cáo bỏ trốn và việc truy nã không có kết quả, bị cáo đang ở nước ngoài không thể triệu tập về được...). Khi Tham gia phiên toà, bị cáo được giải thích về quyền và nghĩa vụ của mình.

Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật và yêu cầu: Bị cáo có quyền đưa thêm vật chứng, tài liệu, giấy tờ liên quan và có quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng v.v...

Quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch: Khi xét thấy người tiến hành TTHS sẽ không vô tư trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì bị cáo có quyền yêu cầu thay đổi. Việc thay đổi người tiến

hành tố tụng do cơ quan tiến hành TTHS quyết định khi có các căn cứ quy định tại các Điều 42, Điều 44, Điều 45, Điều 46 và Điều 47 BLTTHS.

Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa: quyền này của bị cáo giống như bị can. Bị cáo có quyền tự bào chữa. Nếu nhờ người khác bào chữa thì có quyền bổ sung ý kiến trong quá trình bào chữa tại phiên tòa.

Được trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà: Trong quá trình xét xử tại phiên tòa, bị cáo có quyền trình bày ý kiến của mình về các vấn đề được nêu ra trong phiên tòa liên quan đến quyền và lợi ích của mình, đồng thời có quyền tham gia tranh luận. Khi tranh luận bị cáo bình đẳng với những người tham gia tranh tụng khác như Kiểm sát viên, người bảo quyền lợi của đương sự.

Quyền được nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo có quyền trình bày mọi vấn đề liên quan đến vụ án, tỏ thái độ đối với lời buộc tội và lưu ý Hội đồng xét xử những tình tiết của vụ án. Trường hợp bị cáo đưa ra những tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng tới vụ án thì Hội đồng xét xử phải quay lại phần xét hỏi. Việc nói lời sau cũng của bị cáo không hạn chế về thời gian. Tuy nhiên Bị cáo chỉ được trình bày những gì liên quan đến vụ án.

Quyền kháng cáo bản án quyết định của Toà án: Trong thời gian 15 ngày kể từ ngày toà tuyên án sơ thẩm(hoặc từ khi nhận được bản sao bản án, niêm yết tại chính quyền xã phường nơi bị cáo cư trú trong trường hợp họ vắng mặt tại phiên tòa) bị cáo có quyền kháng cáo bản án của Toà án. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án của Toà án bị cáo có quyền kháng cáo quyết định đó.

Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Ngoài bản án và quyết định có quyền khác cáo nêu trên, đối với các quyết định khác của cơ quan tiến hành tố tụng như quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, quyết định kê biên tài sản.

2.1.2.5. Quyền hạn,nghĩa vụ. trách nhiệm của người tiến hành tố tụng hình sự

Quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của người tiến hành TTHS được quy định tại Chương III, BLTTHS. Quy định rò quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành TTHS là nhằm giải quyết vụ án hình sự được khách quan, đúng pháp luật. Nhằm thực

hiện mục đích cơ bản này, BLTTHS đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng các cơ quan tiến hành tố tụng trên cơ sở phân biệt rò chức danh hành chính và chức danh tố tụng của loại chủ thể này. Chẳng hạn khi có nhiệm vụ quyền hạn của một chức danh hành chính, Thủ trưởng các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền phân công công tác, chỉ đạo việc thực hiện, kiểm tra việc thực hiện, giải quyết khiếu nại tố cáo… Với tính chất là một chức danh tố tụng, những người này có các quyền, nghĩa vụ như một chức danh tố tụng độc lập trong giải quyết vụ án hình sự như: Có quyền thực hiện các biện pháp cưỡng chế trong TTHS theo quy định của pháp luật.

Nhằm thực hiện xu hướng tăng cường giao quyền trong tố tụng cho những người thường xuyên, trực tiếp tiến hành TTHS là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký tòa án, BLTTHS quy định cụ thể các quyền để các chủ thể này thực hiện nhiệm vụ như: Ra các quyết định TTHS, áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong TTHS theo quy định của pháp luật. So với BLTTHS 1988, BLTTHS 2003 đã giao nhiều quyền hơn cho các loại chủ thể này. Đồng thời, quy định rò trách nhiệm của họ trước pháp luật, trước Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng hình sạ về hành vi, quyết định tố tụng của mình.

Việc phân định rò, xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của những người tiến hành TTHS, tăng cường thẩm quyền cho những người trực tiếp tiến hành hoạt động này sẽ làm cho quá trình giải quyết vụ án hình sự đúng pháp luật hơn. Do vậy, đây chính là một cách thực thể hiện bảo vệ QCN trong TTHS.

2.2. Thực trạng bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự Việt Nam

2.2.1. Bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do thông qua áp dụng các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự

Nguyên tắc cơ bản của TTHS không phải ngẫu nhiên hình thành, mà là đòi hỏi khách quan của xã hội, là cái cần phải có của hoạt động TTHS, là kết tinh của văn minh pháp lý nhân loại. Việc xác định chính xác các nguyên tắc cơ bản của TTHS có ý nghĩa quan trọng, định hướng quá trình xây dựng và thực hiện Bộ luật TTHS, góp phần hình thành những chuẩn mực về cách ứng xử của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án.

Bộ luật TTHS năm 2003 dành một chương quy định về “nguyên tắc cơ bản” với số lượng 30 nguyên tắc từ Điều 3 đến Điều 32 là những nguyên tắc cơ bản, những nguyên tắc này có giá trị xuyên suốt trong quá trình thực hiện nhưng trên thực tế có những bất cập và chưa phù hợp với xu hướng quốc tế. Qua tổng kết thực cho thấy, quy định 30 nguyên tắc cơ bản như hiện hành chưa phù hợp cả về nội dung và hình thức thể hiện; nhiều quy định không phải là nguyên tắc cơ bản hoặc không mang tầm nguyên tắc, mà chỉ là trách nhiệm của các cơ quan; quy định về nguyên tắc còn tản mạn và trùng lắp, gây khó khăn cho quá trình nhận thức và áp dụng nguyên tắc.

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự mỗi Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán đều tuân thủ các nguyên tắc của BLTTHS đặt ra nhưng bất cứ vụ án nào từ ít nghiêm trọng cho đến đặc biệt nghiêm trọng có rất nhiều tình tiết cần phải chứng minh bao gồm chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội. Khi xử lý vụ án là chúng ta đang điều tra, làm rò quá khứ, những hành vi, hậu quả đã thực hiện, đã xảy ra vì thế dù cho nhiều chứng cứ buộc tội đến đâu đi chăng nữa nhưng chỉ cần một tình tiết gỡ tội là toàn bộ chứng cứ buộc tội đều vô nghĩa. Tại Điều 9 và Điều 10 của BLTTHS có quy định “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” và “Xác định sự thật của vụ án”, những nguyên tắc này xét thấy chưa đủ và chưa phù hợp với thực tế.

Mọi người khi đã tham gia vào quá trình của tố tụng thì được đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật. Theo quy định hiện hành và theo tại Điều 9 thì chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng và cụ thể là những người tiến hành tố tụng là có quyền thu thập chứng cứ, những chứng cứ được chấp nhận là những chứng cứ đầy đủ những thuộc tính theo quy định, như vậy vấn đề đặt ra ở đây là ngoài những người trên có quyền thu thập chứng cứ hay không? Trên thực tế tại phiên tòa nhiều trường hợp luật sư, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân... có đưa ra những chứng cứ tại phiên tòa nhưng nhiều khi không được công nhận, mặc dù những tình tiết đó có liên quan đến vụ án.

Về thực trạng tranh tụng tại phiên tòa, từ khi Nghị quyết số 08/NQ-TW được quán triệt, hầu hết các vụ án đã được đưa ra xét xử với sự đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự mới và theo tinh thần cải cách tư pháp của Bộ Chính trị. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thể hiện được tính khách quan, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của cả kiểm sát viên, luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Phiên tòa đã thể hiện được tính dân chủ, bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, bày tỏ quan điểm khác nhau, cùng tranh luận xác định sự thật khách quan. Cùng với việc xét hỏi, Hội đồng xét xử còn chấp nhận luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng xuất trình chứng cứ mới. Hội đồng xét xử xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ mới, chứng cứ có trong hồ sơ, chứng cứ đã được kiểm sát viên phân tích, đánh giá khi luận tội bảo vệ cáo trạng, phát biểu tại phiên tòa, quan điểm của kiểm sát viên, của người bào chữa và những người tham gia tố tụng để ra phán quyết cuối cùng.

Tuy nhiên, Có những phiên toà, thẩm phán thiếu trách nhiệm, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, cẩu thả trong công tác chuẩn bị phiên tòa, trong phiên tòa cũng như trong viết bản án; đánh giá chứng cứ không đầy đủ, không chính xác nên xét xử oan người không có tội, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự. Trên thực tế vẫn còn có những vụ án khi xét xử vắng mặt bị cáo nhưng không có lệnh truy nã và kết quả truy nã; xét xử bị cáo chưa thành niên mà không có người đại diện hợp pháp của bị cáo hoặc nhà trường tham gia; xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng khác - những người mà pháp luật cho phép tham gia vào quá trình tranh tụng để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

Luật đã quy định người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ được quyền trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, nếu những người này có luật sư bảo vệ quyền lợi thì luật sư trình bày trước, những người đó bổ sung sau. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều vụ án do hạn chế về thời gian mà thủ tục này bị vi phạm, đương sự không được trình bày hoặc trình bày không hết ý kiến của mình. Thậm chí

có trường hợp họ cũng không được xét hỏi ở giai đoạn trước đó. Đây là những vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng và vi phạm tinh thần của tranh tụng tại phiên tòa.

Thực tiễn xét xử hiện nay còn tồn tại thiếu sót của thẩm phán - chủ tọa phiên tòa là khi xét hỏi bị cáo thường thẩm vấn theo hướng buộc tội như cáo trạng của Viện kiểm sát, giúp Viện kiểm sát bảo vệ cáo trạng. Không ít trường hợp kiểm sát viên tham gia phiên tòa trong suốt thời gian xét hỏi không hỏi một câu nào mà chỉ đọc bản cáo trạng rồi ngồi xem Hội đồng xét hỏi khi nào kết thúc phần xét hỏi thì đọc bản luận tội. Vai trò của kiểm sát viên tại phiên tòa chỉ như người chứng kiến, rò ràng là kiểm sát viên đã không ý thức được mình là một bên không thể thiếu của quá trình tranh luận tại phiên tòa, dường như việc xét hỏi và tranh luận là của Hội đồng xét xử.

Về các giai đoạn tố tụng trong giải quyết vụ án. Hiện nay, tất cả các vụ án hình sự khi giải quyết đều trải qua 04 giai đoạn: Giai đoạn khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử và giai đoạn thi hành án. BLTTHS hiện nay chưa có quy định nào thể hiện rò ràng có các giai đoạn trên. Tại Điều 76 BLTTHS có thừa nhận gián tiếp có giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử.

2.2.2. Bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam

Bắt người, tạm giữ, tạm giam người là các biện pháp ngăn chặn nhằm hạn chế một số quyền của công dân, QCN của người bị bắt. Bắt người, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp cưỡng chế cần thiết do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo. Một số trường hợp có thể áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố (như người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và trường hợp khẩn cấp) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có những hành động cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án. Mục đích của các biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế. Các biện pháp ngăn chặn nhằm bảo vệ các QCN, quyền và

lợi ích hợp pháp của công dân nhưng khi áp dụng chúng cũng rất dễ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bởi vì, một số hoạt động tố tụng có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được thông tin... của người bị bắt. Nắm vững nội dung, thẩm quyền, thủ tục bắt, tạm giữ, tạm giam sẽ bảo đảm cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng áp dụng đúng pháp luật, tránh vi phạm các quy định pháp luật về bảo đảm QCN, quyền công dân khi thực thi công vụ.

Những năm gần đây, bắt, giam giữ là vấn đề thu hút sự chú ý của nhiều cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, và đông đảo quần chúng nhân dân. Việc bắt người tùy tiện, bắt oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam người không có Lệnh đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến QCN, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Theo báo cáo của Viện trưởng VKSND tối cáo ngày 05/5/2015 về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII, trong 6 tháng đầu năm 2015, “có 524 trường hợp bắt, sau không đủ căn cứ khởi tố phải trả tự do. Quá hạn tạm giữ 02 trường hợp, đã phát hiện, quyết định trả tự do cho 40 người bị tạm giam trái pháp luật”.

Có trường hợp cơ quan cấp dưới giữ người nhưng không báo cáo cơ quan có thẩm quyền, xử lý vụ việc tùy tiện, xâm hại xâm hại nghiêm trọng đến quyền tự do, quyền được bảo hộ về danh dự, nhân phẩm của con người. Trường hợp của hai chị em cô Hắc Thị Bạch Thủy và Hắc Thị Bạch Tuyết tại tỉnh Bình Thuận mà báo chí đã phản ánh là một trong những ví dụ vi phạm pháp luật không đáng xảy ra nếu người thi hành công vụ có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Mới chỉ nghi ngờ cô Tuyết và cô Thủy tráo vàng giả mà chủ tiệm vàng Mỹ Kim đã dẫn giải hai cô tới công an thị trấn Chợ Lầu; và tại đây, được công an thị trấn cho phép, chủ tiệm vàng đã tự tiện giữ chị em cô Tuyết từ 16 giờ ngày 21/01 đến 02 giờ ngày 22/01/2010, thậm chí còn cởi hết quần áo của các cô để khám xét.

Một vụ việc thể hiện bắt người tùy tiện,không đúng trình tự thủ tục luật định đã xảy ra tại xã Thanh Long, huyện Yên Mỹ,Hưng Yên. Diễn tiến của vụ việc có thể tóm tắt như sau: Bà Vuốt có hai con là anh Qúy và anh Sửu. Chi Toan là vợ anh

Xem tất cả 143 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí