Bản sắc Nùng trong thơ Mã Thế Vinh - 2


tác phẩm Hiến pháp ban hành như mùa xuân, tôi thấy tác giả bám sát các vấn đề lớn của chính trị mà tác phẩm vẫn vượt qua được và không ít những bài thơ như vậy” hay: “Ông dùng từ ngữ bình dị, không cầu kỳ, cùng với cách diễn đạt rất “Dân tộc”, tuy nhiên thơ ông cũng có câu khá bất ngờ - đó là sự khám phá, sự tìm tòi, có nhiều phát hiện chỉ có người miền núi” [48, tr.1004 - 1011].Còn trong bài: Cảm hứng sử thi trong thơ Mã Thế Vinh, nhà phê bình Lâm Tiến đã chỉ ra một số đặc điểm nổi bật trong thơ Mã Thế Vinh: “Thơ của Mã Thế Vinh là thơ mang đậm chất trữ tình – sử thi, ít có bài thơ ngẫm ngợi về thể tài nhân tình. Những câu thơ của anh chân chất, hồn nhiên, trong sáng nhưng cũng thật mộc mác, giản dị. Nhiều câu thơ hay như một nét chấm phá làm nổi bật lên con người cuộc sống, cảnh vật thể hiện rò cảm hứng sáng tạo, tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ. Mã Thế Vinh đã để lại cho người đọc những bài thơ, câu thơ hay. Đạt được thành tựu đó đối với anh quả là một cuộc hành trình đầy gian nan, vất vả, một công cuộc sáng tạo vượt quá sức mình” [48, tr.1022]. Quả như vậy, với những đóng góp của mình trong suốt từ thời tuổi trẻ đến cái tuổi bát thập này này thì Mã Thế Vinh hoàn toàn có thể tự hào về sự nghiệp thơ ca đó của mình.

Trong bài viết: Mã Thế Vinh: Mộc mạc một hồn thơ - nhà thơ Mai Liễu cũng đã khẳng định: “Nhà thơ Mã Thế Vinh thật hạnh phúc với thời đại ông sống và sáng tác! Thơ ông, thời của ông hướng tới cộng đồng. Nhà thơ Bàn Tài Đoàn cả đời làm thơ cho người Dao hát về cuộc đổi đời chưa từng có trong lịch sử người Dao. Thơ Mã Thế Vinh phần nhiều cũng là những bài sli người Nùng có thể hát lên ở bất cứ nơi đâu! Tôi nghĩ đóng góp của ông hẳn là ở mảng thơ - sli Nùng - Những bài thơ, truyện thơ sáng tác bằng tiếng Nùng... Và vì thế, ông không chỉ có cả triệu người nói tiếng Tày Nùng hiểu ông, yêu mến ông như việc xuất bản tiếng dân tộc làm được tốt hơn bấy giờ!”[48, tr.1029]. Trong bài Mặt trời rạng rỡ nhà thơ Y Phương đã nhận xét một cách tinh tế: “Tình cờ tôi đọc lại bài thơ tứ tuyệt Mặt trời cuả nhà thơ Mã Thế Vinh


trên mạng. Chắc ai đó thấy bài thơ này hay, đã đăng lên cho mọi người cùng đọc... Bài thơ đã để lại cho công chúng độc giả thưởng thức một cách thích thú. Giống như món Nằm khau, vịt quay - những món khoái khẩu chỉ có ở Lạng Sơn” [48, tr.1030 – 1032]. Và trong bài Cách diễn đạt độc đáo trong thơ các dân tộc thiểu số và miền núi của Th.S. Lộc Bích Kiệm (Hội Văn học nghệ thuật Lạng Sơn) đã viết về Mã Thế Vinh như thế này đây: “Những câu thơ như thế chỉ có thể viết lên từ những người con sống trong lòng văn hoá, biết văn hoá, yêu văn hoá Tày - Nùng. Người đọc cũng chỉ thấy hay khi hiểu được yếu tố văn hoá Tày - Nùng chứa đựng trong đó. Cụ thể ở câu thơ của Mã Thế Vinh muốn nhắc đến yếu tố văn hóa khi người con trai và người con gái Tày (hoặc Nùng) hẹn gặp nhau tại buổi chợ phiên, trên đường xuống chợ, một trong hai người đi trước sẽ bẻ những cành lá đánh dấu trên đoạn đường mình đi để người đi sau nhận biết rằng anh (hoặc em) đã đi trước và đi theo lối này. Cứ thế họ đi tìm nhau theo con đường tình yêu đã được đánh dấu” [13,tr.69]

Trong cuốn sách Nét đẹp văn hóa trong thơ văn và ngôn ngữ dân tộc (tập 3 - Hương rừng) của tác giả Hoàng Văn An có bài viết : Lạng Sơn với tác phẩm xưa và nay trong đó ông đã nhận xét về Mã Thế Vinh một cách trân trọng như sau: “Lạng Sơn có một vài nhà thơ, nhà văn trưởng thành từ Chi hội văn nghệ Việt Bắc như Mã Thế Vinh (thơ), Vi Thị Kim Bình, Nguyễn Trường Thanh (văn), sau đó là một số các tác giả khác, đặc biệt có tác phẩm “Hiến pháp ban hành như mùa xuân” và tập song ngữ “Vẽ bản đồ quê tôi” của nhà thơ Mã Thế Vinh - được Giải thưởng miền núi - dân tộc của Hội Nhà văn, cùng sự ra đời của Hội VHNT Lạng Sơn năm 1968 đã đánh thức tiềm năng VHNT nói chung và thơ ca xứ Lạng nói riêng” [1, tr.17]

Có thể thấy rò ở những bài viết này, các tác giả đã chỉ ra được một số đặc điểm nổi bật về nội dung cũng như các thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong sáng tác của nhà thơ Mã Thế Vinh, cũng như đã khẳng định được những đóng góp quan trọng của nhà thơ đối với văn học Lạng Sơn nói riêng, với văn


học các DTTS Việt Nam nói chung (giai đoạn trước năm 2000). Tuy nhiên, cho tới nay chúng tôi vẫn chưa thấy có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về các sáng tác thơ của Mã Thế Vinh, nhất là về một trong những đặc điểm nổi bật trong tác phẩm thơ ca của ông - Đó là: Bản sắc dân tộc Nùng trong các tác phẩm của nhà thơ dân tộc thiểu số này.

Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề: “Bản sắc Nùng trong thơ Mã Thế Vinh” để làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình, với hi vọng sẽ góp một tiếng nói khoa học vào việc khẳng định những giá trị nhiều mặt của các sáng tác (ở đây chủ yếu là mảng thơ ca) cũng như nét đặc trưng nổi bật trong các tác phẩm của nhà thơ - đó là về bản sắc Nùng trong thơ Mã Thế Vinh. Từ đó góp phần khắc họa rò nét hơn chân dung nhà thơ Nùng của Xứ Lạng nói riêng, của các DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại nói chung.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Bản sắc Nùng trong thơ Mã Thế Vinh - 2

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là toàn bộ những sáng tác thơ (gồm cả Trường ca) của tác giả Mã Thế Vinh gồm: 10tác phẩm thơ (Trong đó có cả các tập thơ được sưu tầm, dịch từ tiếng Nùng) của ông:

- Vẽ bản đồ quê tôi, (Song ngữ), Nxb Văn hóa – Hà Nội (1981)

- Lằm tàng chài pây (Con đường anh đi) Trường ca Song ngữ - Nxb Hội Văn học nghệ thuật Lạng Sơn (1995)

- Tâp thơ “ Nhắn bạn” - (Song ngữ ), Nxb Văn hóa dân tộc (1997)

- Mã Thế Vinh, Tuyển tập thơ - Trường ca - Truyện thơ, Nxb Hội văn học nghệ thuật Lạng Sơn (2003)

- Báo slao sli tò toóp (Trai gái sli đối đáp) - (Thơ song ngữ - do Mã Thế Vinh biên tập và dịch) - Nxb Lao Động(2011).

- Sli sình làng (Tập sli song ngữ) do Mã Thế Vinh Biên tập và dịch - Trung tâm Văn hóa Thông tin tỉnh Lạng Sơn xuất bản.


- Cỏ lẩu và sli lượn Nùng Phàn slình (Tập sli song ngữ - do Mã Thề Vinh Sưu tầm và biên dịch) - Nxb Lao Động, (2012)

-Then Văn Quan (Then song ngữ - do Mã Thề Vinh sưu tầm và biên dịch)- Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam xuất bản

- Tuyển tập Mã Thế Vinh (Song ngữ Tày, Nùng - Việt, Phần thơ) Nxb Đại học Thái Nguyên,(2013).

- Tập thơ Tình quê, Nxb Văn hóa dân tộc (2015)

3.2 Mục tiêu nghiên cứu

Thực hiện đề tài này chúng tôi nhằm hướng tới mục tiêu:

- Làm rò bản sắc Nùng trong những sáng tác thơ của tác giả Mã Thế Vinh ở trên cả hai phương diện: Nội dung phản ánh và nghệ thuật thể hiện.

- Góp phần tái hiện chân dung nhà thơ dân tộc Nùng - Mã Thế Vinh và góp phần khẳng định những đóng góp quan trọng của nhà thơ đối với Văn học tỉnh Lạng Sơn nói riêng, với sự nghiệp Văn học của các DTTS Việt Nam nói chung.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Chỉ ra được những đặc điểm cơ bản của bản sắc văn hóa dân tộc trong đời sống văn hóa tinh thần của người Nùng; từ đó phân tích những nét đẹp riêng mang đậm bản sắc Nùng trong những sáng tác thơ Mã Thế Vinh ở cả hai phương diện: Nội dung và nghệ thuật.

- Khẳng định những giá trị, những đóng góp của nhà thơ Mã Thế Vinh đối với văn học Lạng Sơn nói riêng, với văn học của các DTTS Việt Nam nói chung trong quá trình vận động và phát triển của nó.


4.2 Phương pháp nghiên cứu.

Để thực hiện đề tài này chúng tôi sẽ sử dụng những phương pháp nghiên cứu như sau:

- Phương pháp nghiên cứu tác giả, tác phẩm văn học.

- Phương pháp phân tích- tổng hợp.

- Phương pháp thống kê, so sánh .

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Văn học với Văn hóa học; Dân tộc học, Lịch sử…

5. Phạm vi nghiên cứu.


- Khảo sát toàn bộ sáng tác của nhà thơ Mã Thế Vinh, đi sâu vào nghiên cứu và phân tích các tác phẩm thơ của nhà thơ Mã Thế Vinh.

- Khảo sát một số tác phẩm thơ của các nhà thơ DTTS khác (để so sánh, đối chiếu với thơ Mã Thế Vinh).

- Đọc tham khảo một số công trình nghiên cứu về Văn hóa học, Dân tộc học và Lý luận phê bình văn học để phục vụ phần cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.

6. Cầu trúc luận văn.


Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung chính của Luận văn có cấu trúc gồm 3 chương:

Chương 1: Bản sắc dân tộc trong thơ Nùng thời kỳ hiện đại. Chương 2: Mã Thế Vinh - Nhà thơ Nùng xứ Lạng.

Chương 3: Nghệ thuật thơ Mã Thế Vinh.

7. Đóng góp của luận văn


Nếu đề tài thực hiện thành công thì đây sẽ là công trình nghiên cứu đầu tiên, phân tích một cách có hệ thống và khá toàn diện về đặc điểm và thành tựu thơ ca trong sự nghiệp sáng tác của tác giả Mã Thế Vinh - một nhà thơ dân tộc


Nùng tiêu biểu của thơ ca DTTS Việt Nam hiện đại. Từ đó khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của nhà thơ đối với văn học Lạng Sơn nói riêng, với văn học các DTTS Việt Nam nói chung. Kết quả của luận văn cũng sẽ là một tài liệu tham khảo phục vụ trực tiếp cho việc giảng dạy văn học địa phương tỉnh Lạng Sơn.


Chương 1

BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THƠ CA NÙNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI

1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn

1.1.1. Khái niệm Bản sắc văn hóa dân tộc và Bản sắc văn hóa dân tộc trong thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam

* Khái niệm: Bản sắc dân tộc Bản sắc văn hóa dân tộc.

Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một vấn đề rất quan trọng đối với các dân tộc trên thế giới, đặc biệt là trong thời kỳ hiện đại. Bởi chính bản sắc dân tộc đảm bảo cho dân tộc tồn tại, phát triển qua tất cả sự biến động của lịch sử. Nhờ bản sắc dân tộc chúng ta biểu lộ được một cách toàn vẹn sự hiện diện của mình trong giao lưu với quốc tế. Việc giữ gìn bản sắc dân tộc là góp phần chống lại nguy cơ đồng hóa về văn hóa trong xu hướng hội nhập hiện nay.

Từ điển tiềng Việt của Hoàng Phê có định nghĩa: “Bản sắc là màu sắc, là tính chất riêng, tạo thành đặc điểm chính” [25, tr.31]. Xét nghĩa từ nguyên tiếng Hán thì bản sắc là màu gốc chưa bị pha trộn, là sắc thái hồn nhiên tự nhiên chưa bị đẽo gọt, trang điểm tỉa tót. Ở góc độ văn hóa, lịch sử dân tộc, triết học thì như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Bản sắc là nét riêng biệt, độc đáo của một dân tộc thể hiện trong một nền văn hóa, nghệ thuật, trong phong tục tập quán, trong đời sống muôn màu của dân tộc.” [7]. Còn nhà nghiên cứu Hoàng Trinh thì chỉ rò: “Bản sắc dân tộc là tổng thể những tính chất, tình cảm, tính cách, đường nét, màu sắc biểu hiện ở một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển giúp cho dân tộc đó giữ vững tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán của bản thân mình trong quá trình phát triển” [34,tr.19]

Trong văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững,


những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước”. [8,tr.56]

Thuật ngữ bản sắc thường được sử dụng gắn với từ văn hóa dân tộc. Nói đến dân tộc là nói đến văn hoá, bản sắc văn hoá và nói đến văn hoá là nói đến dân tộc, bản sắc dân tộc. Có thể hiểu bản sắc văn hoá là hệ thống các giá trị đặc trưng bản chất của một nền văn hoá được xác lập, tồn tại, phát triển trong lịch sử và được biểu hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa. Trong bản sắc văn hóa, các giá trị đặc trưng bản chất là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững; còn các sắc thái biểu hiện của nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi hơn. Tuy nhiên, nếu dừng lại ở đây thì khái niệm bản sắc văn hóa vẫn là một khái niệm vô định, vì nói tới văn hóa là nói tới con người và nói tới những dân tộc cụ thể đã sinh ra, duy trì và phát triển nó. Vì vậy, chỉ khi tiếp cận đến bản sắc văn hóa của dân tộc thì ý nghĩa của nó mới được thể hiện một cách trọn vẹn.

Còn về khái niệm Bản sắc văn hóa dân tộc Bản sắc văn hóa dân tộc trong vănhọc thì cũng được rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học bàn đến và đưa ra những ý kiến, những nhận định vừa mang tính khái quát vừa mang tính cụ thể. Ví dụ như: Nhà nghiên cứu Phùng Quý Nhâm khái quát:“Thuật ngữ bản sắc dân tộc của văn hóa xác định những đặc điểm độc đáo của nền văn học dân tộc như một giá trị tạo nên một diện mạo riêng của dân tộc đó” [17,tr.251]; nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cũng đưa ra nhận định của mình:“Ta nên hiểu bản sắc như là một bản chất độc đáo, là diện mạo tinh thần riêng, là cái suigeneris (bản chất riêng) của sự vật, làm cho nó phân biệt với cái khác”; và ông cũng chỉ ra bản sắc dân tộc Là thuộc tính độc đáo của một nền văn học vừa biểu hiện cái chung của nền văn học ấy, vừa phân biệt nó với nền văn học khác”. [26,tr.225]

PGS.TS Trần Thị Việt Trung trong công trình nghiên cứu Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nhấn mạnh: “Bản sắc

Ngày đăng: 29/07/2022