Nghị quyết 717 (1991) được thông qua với sự tán thành của tất cả các thành viên của Hội đồng bảo an với 15 phiếu thuận. Sau đó, Hội đồng bảo an đã thông qua nhiều Nghị quyết khác nhằm đảm bảo hoạt động của lực lượng gìn giữ hòa bình tại Campuchia trong việc thực hiện các quyết định của Hội nghị Paris, chẳng hạn: Nghị quyết 718 ngày 31/10/1991; Nghị quyết 728 ngày 08/0/19992. Đặc biệt là vào ngày 28/02/1992, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết 745 với 15 phiếu thuận. Sau khi nhắc lại Nghị quyết 668 (1990), 717 (1991), 718 (1991) và 728 (1992), và trên cơ sở xem xét báo cáo của Tổng thư ký Boutros Boutros-Ghali ngày 19/02/1992,Hội đồng bảo an đã quyết định thành lập Cơ quan chuyển tiếp (hay còn gọi là Chính quyền quá độ) của Liên hợp quốc tại Campuchia (UNTAC), hoạt động trong thời hạn không quá 18 tháng nhằm đảm bảo cho cuộc bầu cử chính quyền mới ở Campuchia vào năm 1993. Đây là lần đầu tiên Liên Hợp Quốc tiến hành tiếp quản chính quyền của một nhà nước, mà không phải là hoạt động giám sát thông thường.Ngoài ra, trong Nghị quyết 745 (1992), Hội đồng bảo an đã kêu gọi tất cả các bên ở Campuchia , bao gồm cả Hội đồng quốc gia tối cao của Campuchia, tiến hành hợp tác với Cơ quan Liên Hiệp Quốc, đảm bảo việc thực hiện các thỏa thuận đã ký kết và sự an toàn của tất cả các nhân viên Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, cung cấp hỗ trợ sự cần thiết cho chính quyền. Đồng thời Nghị quyết này cũng thúc giục các bên Campuchia tiến hành giải thể các lực lượng quân sự của họ trước khi diễn ra cuộc bầu cử. Cuối cùng, Nghị quyết 745 (1992) của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc còn kêu gọi các nước thành viên cung cấp hỗ trợ cho UNTAC và hỗ trợ kế hoạch của Liên Hợp Quốc tại Campuchia, trong đó có các chương trình giành cho các cơ quan chuyên trách phục vụ công tác chuẩn bị và hoạt động để thực hiện các thỏa thuận, bao gồm việc tái tạo, việc hồi hương của người tị nạn và người phải di dời, sửa chữa cơ sở hạ tầng. Đồng thời, yêu cầu Tổng thư ký báo cáo lại vấn đề này cho Hội đồng bảo an vào ngày 01/06/1992, tiếp đó là vào tháng 09/1992, tháng 01/1993 và tháng 04/1993.
Thực hiện các quy định của Hội đồng bảo an trong Nghị quyết 745 (1992), ngày 16/03/1992, UNTAC, dưới đại diện đặc biệt UNSYG Yasushi Akashi và Trung tướng Tổng John Sanderson cùng với 22.000 nhân viênđã tới Campuchia để bắt đầu thực hiện kế hoạch hòa giải của Liên hợp quốc, kế hoạch này đã được ký kết nhờ kết quả của Hội nghị Paris năm 1991.
Liên quan đến việc bầu cử ở Campuchia, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc còn ban hành Nghị quyết 766 ngày 21/07/1992, Nghị quyết 783 ngày 13/10/1992, Nghị quyết 792 ngày 30/11/1992. Trong đó, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết 766 (1992) đã bày tỏ mối quan tâm của mình về những khó khăn mà các chính quyền quá độ của Liên Hợp Quốc tại Campuchia (UNTAC) trong việc thực hiện giải pháp chính trị được thông qua tại hội nghị Paris ngày 23/10/1991. Lên án hành vi vi phạm liên tục thỏa thuận ngừng bắn ở Campuchia, kêu gọi tất cả các bên phải chấm dứt ngay lập tức hoạt động chiến sự; lên án Đảng Dân chủ Campuchia trong việc cho phép UNTAC triển khai của đến các khu vực cụ thể; tái khẳng định cam kết của cộng đồng quốc tế đối với các hoạt động chính trị của UNTAC; yêu cầu Tổng thư ký Boutros Boutros-Ghali đẩy nhanh việc triển khai các thành phần dân sự, đặc biệt là những người liên quan đến việc giám sát và kiểm soát các cấu trúc hành chính. Đối với việc thiếu hợp tác của Đảng Dân chủ Campuchia, Hội đồng tuyên bố rằng những lợi ích của sự hỗ trợ quốc tế sẽ chỉ áp dụng cho các bên mà thực hiện nghĩa vụ của mình theo Công ước Paris.
Ngày 13/10/1992 , Hội đồng bảo an Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết 783 liên quan đến việc chuẩn bị cho cuộc bầu cử, nhấn mạnh sự cần thiết về việc tổ chức cuộc bầu cử trong một môi trường chính trị trung lập. Yêu cầu UNTAC thành lập các Đài phát thanh, truy cập vào tất cả các vùng lãnh thổ Campuchia; khuyến khích Tổng thư ký và các đại diện đặc biệt tận dụng các khả năng trong khuôn khổ của UNTAC thực hiện các biện pháp để nâng cao hiệu quả của các cảnh sát dân sự trong việc giải quyết các vấn đề phát triển liên quan đến việc duy trì luật pháp và an ninh trật tự. Nghị quyết cũng kêu gọi các quốc gia thành viên và các tổ chức tài chính đóng góp theo đúng công bố tại hội nghị ở Tokyo vào ngày 22 tháng 6 năm 1992. Cuối cùng, Nghị quyết 783 yêu cầu Tổng thư ký báo cáo lại cho Hội đồng Bảo an trong thời gian sớm nhất trước ngày 15/11/1992 về việc thực hiện Nghị quyết này.
Tiếp đó, ngày 30/11/1982, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 792, xác định rằng việc chuẩn bị cho cuộc bầu cử, dự kiến vào tháng 5 năm 1993, sẽ tiến hành trên tất cả các lĩnh vực; kêu gọi tất cả các đảng phái ở Campuchia hợp tác với UNTAC nhằm thiết lập một môi trường chính trị trung lập phục vụ cho cuộc bầu cử tự do và công bằng mà không có sự đe dọa, quấy rối hoặc bạo lực chính
trị. Nghị quyết này cũng kêu gọi Đảng Dân chủ Campuchia tham gia đầy đủ vào việc thực hiện các Hiệp định Paris bao gồm cả các quy định bầu cử và yêu cầu Tổng thư ký và các quốc gia mở đối thoại với Đảng Dân chủ Campuchia nhằm thực hiện các quy định của Nghị quyết này. Bên cạnh đó, Hội đồng bảo an cũng kêu gọi các bên hợp tác với UNTAC để ngăn chặn việc cung cấp các sản phẩm dầu khí cho Đảng Dân chủ Campuchia, công bố sẽ xem xét biện pháp khác nếu Đảng Dân chủ Campuchia tiếp tục từ chối hợp tác, trong đó có biện pháp đóng băng tài sản của tổ chức bên ngoài Campuchia. Ngoài ta, Hội đồng đã yêu cầu UNTAC để thiết lập tất cả các trạm kiểm soát biên giới cần thiết và yêu cầu các quốc gia hợp tác trong cả việc thành lập và duy trì các trạm kiểm soát, cho phép Hội đồng quốc gia tối cao thực hiện lệnh cấmxuất khẩu gỗ từ Campuchia nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước, kêu gọi tất cả các quốc gia, đặc biệt là các bang lân cận, để tôn trọng lệnh cấm đó và yêu cầu của Hội đồng Quốc gia Tối cao xem xét một biện pháp tương tự liên quan đến việc xuất khẩu khoáng sản và đá quý. Cuối cùng, Nghị quyết kêu gọi tất cả các bên ngừng bắn, có biện pháp hiệu quả chống lạithổ phỉ và buôn lậu vũ khí và bảo vệ nhân viên của UNTAC; tiếp tục yêu cầu Tổng thư ký tác động tới quá trình bầu cử nếu Đảng Dân chủ Campuchia tiếp tục từ chối hợp tác, và báo cáo cho Hội đồng trước ngày 15/02/1993 . Nghị quyết 792 đã được thông qua với 14 phiếu thuận và một phiếu trắng của Trung Quốc do quốc gia này lo ngại một cuộc bầu cử mà không có Đảng Dân chủ Campuchia sẽ "có hại" cho tiến trình hòa bình.
c. Kết quả
Sau một tiến trình hòa bình vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 vốn đưa đến việc ký các Hiệp định Paris về Campuchia vào tháng 10 năm 1991, một chiến dịch gìn giữ hòa bình được tiến hành bởi Liên Hiệp Quốc tại Campuchia kể từ tháng 3 năm 1992, tức là khi Chính quyền Quá độ của Liên Hiệp Quốc tại Campuchia (UNTAC) chính thức được thành lập, cho đến tháng 9 năm 1993 khi sứ mệnh của UNTAC kết thúc sau khi một hiến pháp mới của Campuchia được Hội đồng Lập hiến thông qua.
Ngày 5 tháng 8 năm 1992, Hội đồng Quốc gia Tối cao thông qua luật bầu cử do UNTAC soạn thảo, trong đó trao quyền bỏ phiếu cho mọi cá nhân 18 tuổi sinh ở Campuchia, có bố hoặc mẹ sinh tại đất nước này, hoặc trường hợp những người sinh ra
ở nước ngoài thì phải có bố hoặc mẹ sinh ở Campuchia và ông hoặc bà cũng phải được sinh ra ở nước này. Điều này đã tạo nên một sửa đổi đối với các quy định của Hiệp định Paris về Campuchia, nêu rõ mọi cá nhân 18 tuổi sinh ở Campuchia hoặc là con của một người sinh ở Campuchia sẽ có đủ tư cách bỏ phiếu. Đảng Campuchia Dân chủ phản đối luật bầu cử chủ yếu vì luật này cho phép người Việt ở Campuchia được bỏ phiếu. Mục đích của luật là nhằm tước quyền bầu cử của những người Việt mới định cư, không phải người Việt sống tại đất nước này thời kỳ trước năm 1970.
Có thể bạn quan tâm!
- Nguyên Tắc, Điều Kiện Và Trình Tự Thủ Tục Hội Đồng Bảo An Áp Dụng Biện Pháp Trừng Phạt Bằng Vũ Lực
- Liên Hợp Quốc Áp Dụng Trừng Phạt Bằng Vũ Lực Qua Các Giai Đoạn
- Yêu Cầu Iraq Thực Hiện Nghiêm Chỉnh Và Đầy Đủ Nghị Quyết 660 (1990) Và Các Nghị Quyết Có Liên Quan Sau Đó; Cho Phép Iraq Một Cơ Hội Cuối Cùng Rút Quân
- Đánh Giá Về Các Biện Pháp Trừng Phạt Bằng Vũ Lực Của Liên Hợp Quốc
- Ưu Điểm Của Các Biện Pháp Trừng Phạt Bằng Vũ Lực
- Những Kiến Nghị Nâng Cao Hiệu Quả Của Việc Trừng Phạt Bằng Vũ Lực Của Liên Hợp Quốc
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Năm 1993, dưới sự cam thiệp của lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, cuộc bầu cử tự do đã được tổ chức ở Campuchia. Tuy nhiên, Khmer Đỏ hay Đảng Dân chủ Campuchia (PDK)- Đảng có lực lượng không bao giờ thực sự giải giáp hoặc xuất ngũ, đã cản trở dân tham gia trong 10-15% của đất nước (nhóm này chiếm giữ sáu phần trăm dân số Campuchia) mà lực lượng này kiểm soát. Tổng cộng đã có hơn bốn triệu người Campuchia (khoảng 90% cử tri hội đủ điều kiện đầu phiếu) tham gia vào cuộc bầu cử tháng năm 1993. Hoàng thân Norodom Ranariddh thuộc đảng bảo hoàng Funcinpec là người nhận phiếu bầu cao nhất với 45,5% phiếu bầu, tiếp đến là Đảng Nhân dân Campuchia của Hun Sen (nguyên là đảng cộng sản) và Đảng Dân chủ Tự do Phật giáo (của Son Sann). Mặc dù chiến thắng, các Funcinpec đã phải đàm phán để liên hiệp với Đảng Nhân dân Campuchia- đảng do Hun Sen lãnh đạo.Sau hội đàm, Hoàng thân Ranariddh và Hun Sen trở thành Thủ tướng thứ nhất và Thủ tướng thứ hai trong Chính phủ Hoàng gia Campuchia (RCG).
Sau cuộc tuyển cử vào cuối tháng 5, các đảng chính trị đại diện trong Hội đồng Lập hiến đã thành lập Chính quyền lâm thời chung – Chính phủ Quốc gia Campuchia Lâm thời để điều hành đất nước cho đến khi một Hiến pháp mới được thông qua và Hội đồng ập hiến được chuyển thành một hội đồng lập pháp. Ngày 1 tháng 7, Hội đồng Lập lập hiến bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ Lâm thời. Tuy nhiên, sau cuộc bầu cử, những cuộc tấn công làm người Việt thiệt mạng không chấm dứt mà tấn công vẫn tiếp tục diễn ra vào các ngày 6, 8 và 10 tháng 7. Đồng thời một vụ tấn công còn diễn ra vào tháng 8. Các vụ tấn công này đã dẫn đến những phản đối chính thức từ Việt Nam.
Trong suốt quá trình rút lui của UNTAC từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1993, Hiến pháp mới của Campuchia đã được thông qua. Xem xét kỹ hơn Hiến pháp cho thấy nó không chứa đựng bất kỳ điều khoản nào quy định vấn đề bảo vệ nhân quyền
hay bất kỳ nghĩa vụ và đặc quyền nào dành cho kiều dân nước ngoài sống ở Campuchia. Hiến pháp quy định các quyền và nghĩa vụ của công dân Campuchia mà không nhắc đến thành phần dân tộc của các công dân này. Vì vậy, bản thân Hiến pháp không loại trừ bất cứ nhóm sắc tộc nào ra khỏi tư cách công dân Campuchia. Tuy nhiên, vào cuối tháng 9 năm 1993, có báo cáo cho thấy trong các tranh luận tại Quốc hội về vấn đề ai được xem là người Campuchia, các thành viên Quốc hội mở rộng khái niệm nhằm bao gồm người Chăm và người Hoa nhưng loại trừ người Việt. Vì vậy, địa vị cũng như quyền lợi của người Việt ở Campuchia tiếp tục là một vấn đề gây tranh cãi.
Ngày 9 tháng 10 năm 1996, Luật Quốc tịch Campuchia được ban hành. Luật định rõ các tiêu chuẩn để mang quốc tịch Campuchia cũng như các yêu cầu mà người nước ngoài phải đáp ứng nhằm có được quốc tịch Campuchia, nghĩa là được nhập tịch. Từ đó, quan hệ giữa hai nước Việt Nam-Campuchia mới được cải thiện. Biểu hiện cụ thể cho hoạt động này là việc vào tháng 11 năm 1996, Campuchia đã có các bước đi nhằm cấp giấy phép tạm cư cho người Việt đã có mặt tại đất nước này trước năm 1993. Trong giai đoạn này, chuyến viếng thăm quan trọng nhất diễn ra vào cuối tháng 2 năm 1997, khi Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm đến thăm Campuchia. Hai bên nhất trí rằng các cuộc đàm phán nhằm tìm ra giải pháp phù hợp để giải quyết các vấn đề liên quan đến kiều dân Việt Nam tại Campuchia sẽ được tiếp tục.
2.1.2.4 Somalia
a. Bối cảnh lịch sử dẫn đến việc áp dụng các biện pháp trừng phạt
Somalia, tên chính thức Cộng hoà Liên bang Somalia, tiền thân là Cộng hoà Dân chủ Somali, là một quốc gia nằm ở Vùng rừng châu Phi. Nước này giáp với Djibouti ở phía tây bắc, Kenya ở phía tây nam, Vịnh Aden vàYemen ở phía bắc, Ấn Độ Dương ở phía đông, và Ethiopia ở phía tây.
Vào những năm 1980, người dân Somalia phải sống dưới chế độ độc tài của Chính phủ Siad Barre (Chế độ độc tài CS) với những chính sách khắc nghiệt và phản nhân đạo. Trong thời kỳ đó, tình trạng thiếu nhiên liệu, xe ôtô phải xếp hàng dài ở những trạm xăng, lạm phát gia tăng, giá thực phẩm nhảy vọt gây ra nạn đói triền miên, thị trường chợ đen phát triển rộng rãi ở giữa thủ đô để trao đổi hàng hoá cho nhau, không xài tiền, vì đồng tiền hết giá trị. Bất mãn trước tình trạng này, quần chúng Somalia đã nổi dậy ở khắp nơi. Tuy nhiên, Chính phủ độc tài CS của Siad Barre vì trên
đang trên đà suy yếu, nên đã ra tay đàn áp mạnh, và ban bố lệnh cấm tụ tập, cấm chụp hình ở nhiều nơi công cộng, thực hiện giới nghiêm ban đêm để công an, mật vụ thi hành các cuộc hành quân bắt cóc thủ tiêu. Nhiều vụ mất tích xảy ra. Những nhóm nổi dậy được nước Ethiopia trợ giúp vũ khí hoạt động ngày càng mạnh hơn.
Tháng 5 năm 1986, Tổng thống Siad Barre bị tai nạn ôtô điều trị ở Saudi Arabia nên quyền cai trị Somalua rơi vào tay Trung tướng Mohamed Samatar và con rể của Barre là tướng Ahmed Suleiman Abdille. Tháng 5 năm 1991, nhóm quân sự của tướng Mohamed Farrah Aidid phối hợp cùng với những nhóm dân quân của các bô lão, tù trưởng các bộ lạc, thành lập Phong trào Quốc Gia Somalia, tuyên bố độc lập, lấy tên nước là Somaliland. Quốc gia này không được ai thừa nhận. Trong khi đó, tình hình phía nam Somalia vẫn còn hỗn loạn, các nhóm vũ trang đánh nhau khốc liệt để tranh giành những tài sản của quốc gia mà trước kia Cộng Sản đã quốc hữu hóa và tập trung lại. Ông James Bishop, đại sứ Hoa kỳ sau cùng ở Somalia giải thích, nguyên nhân nội chiến là do sự tranh giành nguồn nước, đất đai, đồng cỏ, những đàn gia súc, các cơ sở bị quốc hữu hoá trước kia. Nội chiến vẫn tiếp diễn, phá hỏng nền nông nghiệp, làm gián đoạn hệ thống phân phối lương thực xuống miền Nam. Các lực lượng vũ trang chiếm đoạt phần lớn thực phẩm.Đến năm 1992, gần 4,5 triệu người (hơn một nửa dân số của Somalia lúc bấy giờ) bị đe dọa bởi nạn đói, suy dinh dưỡng nặng và các bệnh liên quan. Cùng với đó, khoảng 300.000 người, trong đó có nhiều trẻ em đã thiệt mạng, và khoảng 2.000.000 người vì bạo lực đã buộc phải di dời khỏi nơi cư trú, hoặc là bỏ chạy sang các nước láng giềng hay ở nơi khác trong Somalia. Tất cả các tổ chức quản lý và ít nhất 60% cơ sở hạ tầng cơ bản của đất nước Somalua bị phá huỷ.
b. Diễn biến của việc áp dụng các biện pháp trừng phạt bằng vũ lực
Quan ngại trước sự suy thoái nhanh chóng của tình hình ở Somalia và những thiệt hại nặng nề về người và vật chất do cuộc nội chiến ở nước này, nhận thức được hậu quả của nó đối với sự ổn định và hòa bình trong khu vực cũng như sự đe dọa đối với hòa bình và an ninh thế giới, ngày 23/01/1992, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc đã tổ chức cuộc họp số 3030 để xem xét tình hình của Somalia. Trong cuộc họp này, trên cơ sở các quy định tại Chương VIII của Hiến chương Liên Hợp Quốc, và các khiếu nại của Chủ tịch tổ chức hội nghị hồi giáo ngày 16/12/1991, của Tổng thư ký Tổ chức Thống nhất châu Phi ngày 18/12/1991 và của Liên đoàn các quốc gia Ả rập ngày
05/11/1992 ( S / 23.448), Hội đồng bảo an Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết 733 (1992), trong đó:
i)Nêu rõ những nhận định trong báo cáo của Tổng thư ký về tình hình ở Somalia, và bày tỏ quan ngại với tình hình hiện tại quốc gia đó;
ii) Yêu cầu Tổng thư ký thực hiện ngay lập tức các hành động cần thiết để Liên Hợp Quốc và các cơ quan chuyên môn tăng viện trợ nhân đạo cho người dân bị ảnh hưởng trên toàn bộ đất nước Somalia, đồng thời liên hệ với các tổ chức nhân đạo quốc tế khác để chỉ định một điều phối viên giám sát việc thực hiện hiệu quả của sự hỗ trợ này;
iii) Yêu cầu Tổng thư ký Liên hợp quốc phối hợp với Tổng thư ký của Tổ chức Thống nhất châu Phi và Tổng thư ký của Liên đoàn các quốc gia Ả rập, ngay lập tức liên hệ với tất cả các bên liên quan trong cuộc xung đột, để tìm kiếm các cam kết chấm dứt chiến sự, cho phép hỗ trợ nhân đạo để thúc đẩy ngừng bắn đúng quy định, và để hỗ trợ quá trình thực hiện giải pháp chính trị nhằm giải quyết xung đột ở Somalia;
iv) Thúc giục các bên trong cuộc xung đột ngay lập tức chấm dứt chiến sự và đồng ý ký một thỏa thuận ngừng bắn và thúc đẩy tiến trình hòa giải và các giải pháp chính trị ở Somalia;
v) Quyết định, theo Chương VII của Hiến chương Liên hợp quốc, các quốc gia vì mục đích của việc thiết lập hòa bình và ổn định ở Somalia phải thực hiện ngay lập tức một lệnh trừng phạt chung, cụ thể là thực hiện cấm vận vũ khí và thiết bị quân sự đối với Somalia cho đến khi Hội đồng Bảo an có quyết định khác;
vi) Kêu gọi tất cả các nước cần tránh bất kỳ hành động nào có thể góp phần làm tăng sự căng thẳng và cản trở hoặc trì hoãn đàm phán để giải quyết hòa bình các cuộc xung đột ở Somalia; cho phép tất cả người Somalia tự quyết định xây dựng tương lai của họ trong hòa bình;
vii) Kêu gọi tất cả các bên hợp tác với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, cơ quan chuyên môn, các tổ chức nhân đạo khác trong việc hỗ trợ nhân đạo cho tất cả những người cần giúp đỡ dưới sự giám sát của các điều phối viên;
viii) Kêu gọi tất cả các bên thực hiện mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo sự an toàn của nhân viên thực hiện công tác hỗ trợ nhân đạo, hỗ trợ họ trong việc thực thi nhiệm vụ của mình và đảm bảo tôn trọng đầy đủ các quy định và nguyên tắc của luật pháp quốc tế liên quan đến việc bảo vệ dân thường;
ix) Kêu gọi tất cả các quốc gia và các tổ chức quốc tế cùng nỗ lực cứu trợ nhân đạo cho người dân ở Somalia;
x) Yêu cầu Tổng thư ký báo cáo với Hội đồng Bảo an càng sớm càng tốt về vấn đề này;
xi) Quyết định tiếp tục thực hiện Nghị quyết này cho đến khi có thể đạt được một giải pháp hòa bình;
Tiếp đó, ngày 17/03/1992, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc trong cuộc họp số 3060 đã thông qua Nghị quyết số 746, trong đó đôn đốc việc tiếp tục các hoạt động nhân đạo của Liên Hợp Quốc tại Somalia và hỗ trợ mạnh mẽ quyết định của Tổng thư ký để gửi một đội ngũ kỹ thuật viên tới quốc gia này. Ba ngày sau đó, Tổng thư ký đã bổ nhiệm điều phối viên để giám sát việc thực hiện hiệu quả hoạt động viện trợ nhân đạo cho Somalia. Ngày 27 và 28 /03/1992, các thỏa thuận đã được ký kết giữa các bên xung đột ở Mogadishu, dẫn đến việc Liên hợp quốc bổ nhiệm các quan sát viên để giám sát việc ngừng bắn từ ngày 03/03/1992. Thỏa thuận này cũng bao gồm việc Liên hợp quốc triển khai thành lập lực lượng gìn giữ hòa bình để bảo vệ nhân viên của Liên Hợp Quốc và các hoạt động hỗ trợ nhân đạo tại Somalia. Sau đó, trên cơ sở đề nghị của Tổng thư ký, Hội đồng bảo an đã thông qua Nghị quyết số 751 (1992) ngày 24/04/1992, cho phép thành lập một lực lượng gìn giữ hòa bình hạn chế mang tên Chiến Dịch Liên hợp quốc tại Somalia (UNOSOM I), bao gồm 50 quan sát viên quân sự để giám sát lệnh ngừng bắn, và một đơn vị bộ binh 500 người ngăn chặn cuộc tấn công và để tự vệ, đảm bảo cho việc thực hiện các hoạt động cứu trợ được hiệu quả. Nghị quyết 751 (1992) cũng cho phép chỉ định một đại diện đặc biệt ở Somalia để cung cấp các quy định của Liên hợp quốc về Somalia giúp quốc gia này có thể hòa bình giải quyết cuộc nội chiến. Bên cạnh đó, Hội đồng bảo an, thông qua Nghị quyết 751 (1992) đã thành lập một Ủy ban trừng phạt gồm tất cả các thành viên của Hội đồng, để thực hiện các nhiệm vụ và báo cáo công tác của mình cho Hội đồng bảo an. Theo đó, Ủy ban trừng phạt sẽ có nhiệm vụ: i) Thu thập các thông tin về hành động của các quốc gia liên quan tới việc thực hiện các biện pháp trừng phạt nói chung và lệnh cấm vận được quy định tại khoản 5 Nghị quyết 733 (1992) (cấm vận vũ khí); ii) Xem xét mọi thông tin liên quan đến hành vi vi phạm lệnh trừng phạt, từ đó kiến nghị với Hội đồng bảo an cách thức nâng cao hiệu quả của các lệnh trừng phạt đó; iii) Đề