men do vi khuẩn tiết ra. Những gia cầm nào có manh tràng phát triển hơn như đà điểu, ngan, ngỗng... thì các chất xơ được tiêu hoá nhiều hơn.
2.2.1.3. Đặc điểm sinh lý và giải phẫu cơ quan hô hấp của gà
Theo Trần Thanh Vân và cs, (2015) [15] cho biết: hệ hô hấp của gia cầm gồm: lỗ mũi, xoang mũi, khí quản, 2 phế quản, 2 phổi, 9 túi khí.
- Hai lỗ mũi nằm ở gốc mỏ và có đường kính rất nhỏ. Ở gà, phía ngoài hai lỗ mũi có “van mũi hoá sừng bất động” và xung quanh lỗ mũi có lông cứng nhằm ngăn ngừa bụi và nước.
- Xoang mũi được phát triển từ xoang miệng sơ cấp ở ngày ấp thứ 7. Xoang mũi ngắn, chia ra 2 phần: phần xương và phần sụn. Xoang mũi nằm ở mỏ trên. Xoang mũi là cơ quan thu nhận và lọc khí rồi chuyển vào khí quản, ở gà thanh quản dưới có hai nếp gấp liên kết, hai nếp gấp đó bị dao động bởi không khí và tạo nên âm thanh.
- Khí quản là ống tương đối dài bao gồm nhiều vòng sụn và nhiều vòng hoá xương. Số vòng khí quản ở gà là 110 - 120 và hầu hết là sụn, còn ở thuỷ cầm hầu hết đã hoá xương. Khí quản tương đối cong queo, thành khí quản được cấu tạo bởi màng nhầy, màng xơ đàn hồi và màng thanh dịch ngoài.
- Khí quản chia ra làm hai phế quản ở xoang ngực phía sau xương ngực. Mỗi phế quản dài 6 - 7 cm và có đường kính 5 - 6 mm. Một ống phế quản nối với lá phổi bên trái, còn một ống nối với lá phổi bên phải. Thành phế quản cấu tạo bởi màng nhầy (ở đó có nhiều tuyến nhỏ tạo ra các dịch nhầy, màng xơ đàn hồi), có các bán khuyên sụn trong suốt và thanh dịch ngoài.
- Phổi và phế quản được hình thành từ các nếp gấp ống hầu ở cuối khí quản vào ngày ấp thứ 4, ở ngày ấp thứ 5 xuất hiện túi phổi có màu dạng phế quản. Ở ngày ấp thứ 9 phổi đang phát triển và chia ra mạng lưới phế quản, ở phần cuối của nó hình thành các ống hô hấp. Phổi của gia cầm màu đỏ tươi, cấu trúc xốp, có dạng bọc nhỏ kéo dài, ít đàn hồi.
Phổi nằm ở xoang ngực phía trục xương sống từ trục xương sườn thứ nhất đến mép trước của thận. Trọng lượng của phổi vào khoảng 1/180 thể trọng gia cầm, phụ thuộc vào tuổi và loài. Chức năng chính của phổi là làm nhiệm vụ trao đổi khí.
- Túi khí là tổ chức mỏng bên trong chứa đầy khí. Các túi khí là sự mở rộng và tiếp dài của phế quản. Cơ thể gia cầm có 9 túi khí chính, trong đó có 4 đôi xếp đối xứng, còn 1 túi khí đơn. Các đôi túi khí xếp đối xứng là đôi túi khí xương đòn, đôi túi khí ngực trước, đôi túi khí ngực sau, đôi túi khí bụng. Túi khí đơn là túi khí cổ. Các túi khí thực ra không phải là xoang tận cùng của phế quản sơ cấp và phế quản thứ cấp mà tất cả chỉ là phế nang khổng lồ.
Có thể bạn quan tâm!
- Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng và trị bệnh cho đàn gà thịt nuôi tại trại Đặng Văn Chiện, xóm Đồng Chanh, xã Thịnh Đức, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên - 1
- Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng và trị bệnh cho đàn gà thịt nuôi tại trại Đặng Văn Chiện, xóm Đồng Chanh, xã Thịnh Đức, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên - 3
- Áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng và trị bệnh cho đàn gà thịt nuôi tại trại Đặng Văn Chiện, xóm Đồng Chanh, xã Thịnh Đức, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên - 4
Xem toàn bộ 34 trang tài liệu này.
Theo Trần Thanh Vân và cs, (2015) [15], tần số hô hấp dao động trong khoảng rất lớn, nó phụ thuộc vào loài, tuổi, sức sản xuất, trạng thái sinh lý của gia cầm và điều kiện thức ăn, nuôi dưỡng, nhiệt độ, độ ẩm, thành phần không khí. Trong điều kiện nuôi dưỡng tốt, tần số hô hấp tương đối ổn định. Gia cầm càng lớn thì tần số hô hấp càng nhỏ. Ban đêm tần số hô hấp giảm chậm xuống 30 – 40%. Nhiệt độ tăng tần số hô hấp cũng tăng. Nếu nhiệt độ tăng tới 370C thì nhịp thở của gà lên tới 150 lần/phút. Tần số hô hấp ở gà trưởng thành là 25
- 45 lần/ phút. Gà từ 4 - 20 ngày tuổi là 30 - 40 lần/phút.
Cơ chế hô hấp của gia cầm gồm động tác hít vào và động tác thở ra với sự hoạt động của phổi và hệ thống 9 túi khí chính.
Vận động của xương sườn đóng vai trò quan trọng trong cử động hô hấp. Lúc giãn, không khí xoang ngực giãn và mở rộng làm cho áp lực xoang ngực thấp hơn áp lực bên ngoài, do đó không khí từ ngoài đi vào trong phổi. Lúc hít vào, không khí qua phổi vào các nhánh nhỏ và vào các túi khí. Lúc thở ra thì ngược lại, không khí đi từ các túi khí đi ra ngoài qua phổi lần thứ hai, vì vậy người ta gọi là cơ chế hô hấp kép. Vì phổi gia cầm nhỏ nhưng do không khí tuần hoàn hai lần nên lượng oxygen cung cấp vẫn đảm bảo.
Trong thời gian ngủ quá trình trao đổi chất nói chung giảm xuống 50%. Trong thời gian hoạt động mạnh (bay, chạy, nhảy…) quá trình trao đổi chất tăng lên và mức độ trao đổi khí tăng lên 60 - 100%.
Hoạt động của phổi và túi khí của gia cầm bao gồm: khí lưu thông, khí hít vào thêm, khí thở ra thêm. Hoạt động của phổi và túi khí nói lên khả năng hô hấp lớn nhất của gia cầm.
Sau khi thở ra thêm, trong phổi vẫn còn một lượng khí nhỏ lưu lại gọi là khí cặn. Hoạt động phổi và túi khí của gà tổng cộng là 169 cm3.
Một lượng nhỏ khí O2 được hòa tan vào máu và theo máu đến các mô bào, còn phần lớn kết hợp với hemoglobin trong hồng cầu để tạo Oxy - hemoglobin vận chuyển theo tuần hoàn máu. Lượng O2 tối đa kết hợp với hemoglobin gọi là dung lượng O2 máu, dao động trong khoảng 12 - 21 cm3 (Trần Thanh Vân và cs, 2015) [15].
2.2.1.4. Nhu cầu dinh dưỡng của gà thịt
Năng lượng: gà có khả năng chuyển hoá năng lượng từ những carbonhydrate đơn giản, một vài carbonhydrate phức tạp như dầu và mỡ, nhưng những carbonhydrate quá phức tạp như cellulose thì gà không thể sử dụng được. Mặc dù vậy nhưng gà cũng cần môt lượng cellulose nhất định để làm chất đệm giúp quá trình tiêu hoá được dễ dàng. Tỷ lệ chất xơ trong khẩu phần không được vượt quá 4%. Nhu cầu về năng lượng cho các mục đích trao đổi rất khác nhau, do vậy nếu thiếu năng lượng sẽ ảnh hưởng đến hầu hết các quá trình sản xuất. Đối với gà nuôi lấy thịt nhu cầu năng lượng thường cao hơn đẻ.
Protein: đây là một chỉ số dinh dưỡng quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, sức sản xuất và chất lượng sản phẩm. Người ta cho rằng 20 -25
% sức sản xuất của gia cầm ảnh hưởng trực tiếp bởi dinh dưỡng protein. Gà thịt cần tỉ lệ protein tương đối cao trong khẩu phần để hỗ trợ tăng trưởng nhanh. Khối lượng của gà thịt thương phẩm sẽ tăng lên gấp 50 – 55 lần trong 6 tuần
sau khi nở. Một phần lớn của việc tăng trọng này là tăng trưởng các mô có nhiều protein.
Nước: chính là một thành phần dinh dưỡng quan trọng cho bất kỳ cơ thể sống nào kể cả gia cầm. Nước không những là chất dẫn giúp vật hấp thu chất dinh dưỡng tốt hơn mà nước còn giúp cơ thể đào thải độc tố, giúp các tế bào hoạt động khỏe mạnh hơn… Hầu hết các động vật khác kể cả gà sẽ cần một lượng nước khoảng 50ml/kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày. Khi thời tiết ấm áp, nhu cầu này có tăng lên một chút và tương tự, khi thời tiết lạnh, lượng nước gà cần sẽ giảm hơn so với bình thường.
Khoáng chất: là phần vô cơ trong thành phần thức ăn chăn nuôi gia cầm, thường chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong khẩu phần thức ăn, tuy nhiên khoáng chất có một vai trò vô cùng quan trọng đối với gia cầm.
+ Khoáng đa lượng: Trong cơ thể Ca chiếm 1,3 – 1,8% khối lượng cơ thể, P chiếm 0,8 – 1% khối lượng cơ thể.
+ Khoáng vi lượng: các khoáng vi lượng gồm có đồng, kẽm, sắt, iodine và selenium cũng rất cần thiết cho sự phát triển của gia cầm.
Trong cơ thể vật nuôi và con người khoáng chất có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành các tổ chức trong cơ thể như xương, răng, máu, mô thịt…, một số chất khoáng có vai trò trong quá trình tạo các kênh ion như Na, K… một số khác lại có tác dụng trong việc kích thích sự hoạt động của các enzyme, khoáng chất còn có tác dụng trong việc tham gia hệ thống đệm trong cơ thể …
2.2.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình sinh trưởng, phát triển của gà thịt
- Ảnh hưởng của dòng giống
Trong cùng điều kiện chăn nuôi, mỗi giống khác nhau sẽ có khả năng sinh trưởng khác nhau.
Theo tài liệu của Chambers J. R. (1990) [17] cho biết, thì nhiều gen ảnh hưởng đến sự phát triển của gà. Có gen ảnh hưởng đến sự phát triển chung hoặc ảnh hưởng tới sự phát triển theo nhóm tính trạng hay một vài tính trạng riêng lẻ.
- Ảnh hưởng của tính biệt và tốc độ mọc lông
Sự khác nhau về tốc độ sinh trưởng và khối lượng của cơ thể gà do yếu tố tính biệt quy định trong đó con trống có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn con mái.
Tốc độ mọc lông có liên hệ với chất lượng thịt gia cầm, những gia cầm có tốc độ mọc lông nhanh thường có chất lượng thịt tốt hơn.
- Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng.
Chế độ dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng đối với sinh trưởng của gia cầm. Việc cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng và cân đối giữa các chất sẽ giúp cho gia cầm phát huy cao tiềm năng di truyền về sinh trưởng.
Dinh dưỡng là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến khả năng sinh trưởng của gia cầm, khi đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng thì thời gian đạt khối lượng tiêu chuẩn sẽ giảm xuống.
Chambers J. R. (1990) [17] cho biết, tương quan giữa khối lượng của gà và hiệu quả sử dụng thức ăn khá cao (r = 0,5 – 0,9). Để phát huy khả năng sinh trưởng của gia cầm không những cần cung cấp đủ năng lượng, thức ăn theo nhu cầu mà còn phải đảm bảo cân bằng protein, acid amin và năng lượng. Do vậy, khẩu phần ăn cho gà phải hoàn hảo trên cơ sở tính toán nhu cầu của gia cầm.
- Ảnh hưởng của môi trường
Điều kiện môi trường có ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trưởng của gia cầm. Nếu điều kiện môi trường là tối ưu cho sự sinh trưởng của gia cầm thì gia cầm khỏe mạnh, lớn nhanh, nếu điều kiện môi trường không thuận lợi thì tạo điều kiện cho vi sinh vật phát triển gây bệnh ảnh hưởng đến sức khỏe gia cầm.
Nhiệt độ cao làm cho gà sinh trưởng chậm, tăng tỷ lệ chết, gây thiệt hại kinh tế lớn khi chăn nuôi gà broiler theo hướng công nghiệp ở vùng khí hậu nhiệt đới (Wesh Bunr, 1992 [19]).
Chế độ chiếu sáng cũng ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng vì gà rất nhạy cảm với ánh sáng, do vậy chế độ chiếu sáng là một vấn đề cần quan tâm. Ngoài ra trong chăn nuôi cũng bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau như: độ ẩm, độ thông thoáng, tốc độ gió lùa và ảnh hưởng của mật độ nuôi nhốt đến khả năng sinh trưởng của gia cầm.
Sinh trưởng của gia súc, gia cầm luôn gắn với phát dục, đó là quá trình thay đổi chất lượng, là sự tăng lên và hoàn chỉnh về tính chất, chức năng hoạt động của cơ thể. Hai quá trình đó liên quan mật thiết và ảnh hưởng lẫn nhau tạo nên sự hoàn thiện cơ thể gia súc, gia cầm. Sinh trưởng và phát dục của cơ thể gia súc, gia cầm tuân theo tính quy luật và theo giai đoạn.
2.2.1.6. Các bệnh thường gặp trên gà thịt
Trong thời gian nuôi dưỡng hàng ngày phải theo dõi tình hình sức khỏe của đàn gà để chẩn đoán, phát hiện bệnh và có những hướng điều trị kịp thời. Trong thời gian nuôi gà thường gặp bệnh như sau:
Gà bị sưng khớp chân:
- Nguyên nhân:
Do các vi khuẩn như Staphylococcus aureus Gr(+), vi khuẩn Pasteurella multocida Gr (-), vi khuẩn Mycoplasma synoviae,Salmonella Gr(-).
- Triệu chứng:
Bệnh gây viêm khớp ở gia cầm làm cho gà, vịt, ngan, chim cút, có đặc tính dị tật bại liệt, què, gia cầm dưới 3 tháng tuổi bị bệnh nặng hơn các lứa tuổi khác. Biểu hiện có nhiều khớp cùng bị viêm trong cùng một thời điểm. Những khớp thường hay bị viêm nhất là đầu gối và mắt cá chân, gà đi khập khiễng, đi lại rất khó khăn nên lười vận động giảm ăn, giảm uống, khớp bị viêm sưng đỏ,
khi sờ tay vào thấy mềm, nóng và có biểu hiện đau, về sau các khớp bị viêm bị cứng lại gà đi lại rất khó khăn, biểu hiện gần giống bệnh bại liệt do thiếu khoáng Canxi, phootpho…
- Bệnh tích:
Mổ khám những gà bị liệt kiểm tra các khớp thấy bên trong có dịch màu trắng sữa, khớp bị viêm lâu ngày có thể có mủ hoặc chất bã đậu, phần sau của các khớp bị bào mòn
- Điều trị:
Dùng DOXY – HENCOLI hòa vào nước uống theo liều 1ml/2lit nước cho uống liên tục trong 3 – 5 ngày, tương đương 1ml/12-15kg TT/trên ngày kết hợp với ĐIỆN GIẢI GLUCO K-C THẢO DƯỢC theo liều 1-2g/1l nước uống. 2 thuốc trên có thể pha lẫn hòa vào nước cho uống liên tục cả ngày lẫn đêm trong 3 -5 ngày sẽ làm tăng tác dụng của thuốc, tăng hiệu quả điều trị.
Bệnh CRD
- Nguyên nhân:
Do Mycoplasma gallisepticum gây ra.
Gà 2 – 12 tuần tuổi và gà sắp đẻ dễ bị nhiễm hơn các lứa tuổi khác, thường hay phát bệnh khi trời có mưa phùn, gió mùa, độ ẩm không khí cao.
- Triệu chứng:
+ Thời gian ủ bệnh từ 6 – 21 ngày.
+ Gà trưởng thành và gà đẻ: tăng khối lượng chậm, thở khò khè, chảy nước mũi, ăn ít, gà trở nên gầy ốm, gà đẻ giảm sản lượng trứng nhưng vẫn duy trì ở mức độ thấp.
+ Gà thịt: xảy ra giữa 3 – 8 tuần tuổi với triệu chứng nặng hơn so với các loại gà khác do kết hợp với các mầm bệnh khác (thường với E. coli). Vì vậy trên gà thịt còn gọi là thể kết hợp E. coli - CRD (C - CRD) với các
triệu chứng: âm ran khí quản, chảy nước mũi, ho, sưng mặt, sưng mí mắt, viêm kết mạc.
- Phòng bệnh: thực hiện tốt quy trình vệ sinh thú y, chuồng thông thoáng, mật độ hợp lý, nhiệt độ thích hợp, chăm sóc và nuôi dưỡng tốt, cho uống thuốc để phòng bệnh.
- Điều trị:
+ MG - 200: liều 1 g/4 lít nước, uống liên tục: 3 - 5 ngày.
+ Tiamulin: liều 1 g/4 lít nước, uống liên tục: 3 - 5 ngày.
+ Gia cầm và thủy cầm: liều 1g/ 2 – 4 lít nước uống. Bệnh Cầu trùng
- Nguyên nhân:
Do các loại cầu trùng thuộc giống Eimeria gây ra. Gà con 9 - 10 ngày tuổi bắt đầu nhiễm bệnh nhưng tỷ lệ nhiễm cao nhất ở giai đoạn từ 15 - 45 ngày tuổi. Gà bị nhiễm do nuốt phải noãn nang cầu trùng có trong thức ăn, nước uống. Bệnh xảy ra quanh năm nhưng trầm trọng nhất là vào vụ Xuân Hè khi thời tiết nóng ẩm.
- Triệu chứng:
+ Gà bệnh ủ rũ, ăn ít, uống nhiều nước, xù lông, cánh sã, chậm chạp, phân dính quanh hậu môn, phân loãng, sệt, có màu socola hoặc đen như bùn.
+ Nếu gà bị bệnh nặng thì phân lẫn máu tươi, gà mất thăng bằng, cánh tê liệt, niêm mạc nhợt nhạt, da và mào tái nhợt do mất máu. Tỷ lệ ốm cao, nhiều gà chết.
- Bệnh tích:
+ Cầu trùng manh tràng: manh tràng sưng to và chứa đầy máu.
+ Cầu trùng ruột non: ruột non căng phồng, xuất huyết bề mặt ruột có nhiều đốm trắng xám, bên trong ruột có dịch nhầy màu hồng.
- Điều trị:
+ Dùng cocired: liều 4g/1 - 2 lít nước hoặc 100g/500 kg P, dùng liên tục trong 3 ngày, nghỉ 2 ngày sau đó dùng liệu trình mới nếu gà chưa khỏi.
+ Dùng điện giải Gluco – K – C:Hòa nước hoặc trộn thức ăn với liều: lợn, gà, vịt, ngan, ngỗng: 2g/lít nước uống trong 3 - 5 ngày hoặc 100g/40kg thức ăn để tăng sức đề kháng cho gà.
Bệnh tiêu chảy do E.coli (Colibacillosis)
- Nguyên nhân:
Do vi khuẩn Escherichia coli (E. coli) gây ra.
Em thấy gà ở mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh, đặc biệt là giai đoạn gà con 3 - 15 ngày tuổi, tỷ lệ chết 20 - 60%, gà lớn bệnh ở thể nhẹ và ít chết. Truyền bệnh trực tiếp qua trứng bệnh, lây bệnh nhanh chóng trong lò ấp, ngoài ra có thể lây bệnh gián tiếp qua thức ăn, nước uống và qua vết hở của rốn.
- Triệu chứng:
+ Đầu ổ dịch gà bệnh thường chỉ kém ăn, sức lớn cả đàn chậm lại, sau đó bệnh có thể tiến triển cấp tính ở những đàn gia cầm con.
+ Gà bị bệnh thường ủ rũ, xù lông, gầy rạc. Một số con có triệu chứng sốt, sổ mũi và khó thở. Sau vài ngày gà ỉa chảy, phân lỏng có dịch nhầy màu nâu, trắng, xanh, đôi khi lẫn máu rồi chết hàng loạt. Đôi khi gà có hiện tượng sưng khớp.
- Bệnh tích:
+ Gan sưng và xuất huyết, gan sưng đỏ, gan và màng bao tim có lớp nhầy trắng. Màng túi khí có nốt xuất huyết nhỏ. Niêm mạc ruột sưng đỏ, ỉa phân trắng. Gia cầm ở thời kỳ đẻ, buồng trứng bị vỡ và teo.
- Điều trị:
+ Moxcolis: liều 1g/2 lít nước cho uống liên tục 5 - 7 ngày.
+ Bio-Norfloxacin: liều 2g/lít nước, uống liên tục 5 - 7 ngày.
2.2.1.6. Giới thiệu thuốc sử dụng chuyên đề
Thuốc MG - 200
Là sự phối hợp giữa hai loại thuốc Tylosin Tartrate và Doxycycline HCl.
- Tính chất:
Doxycycline HCL có kháng khuẩn phổ rộng với các vi khuẩn G+ như Staphylococcus, Streptococcus, Actinomyces; các vi khuẩn G- như E. Coli, Klebsiella bacteroides, Enterobacter, Proteus và Pseudomonasaeruginosa, Salmonella, Bordetella spp, Brucella, Bartonella, Haemophilus spp,Pasteurella multocida, Shigella và Yersinia pestis, kể cả Mycoplasma, Chlamydia, Rickettsia,....
Doxycycline có ái lực rất mạnh đến các mô phổi, vì thế nó đặc biệt thích hợp trong phòng và điều trị nhiễm trùng đường hô hấp.
Tylosin Tartrate là kháng sinh thuộc nhóm Macrolide, có tác động diệt các vi khuẩn như: Staphyloccocus, Streptoccocus,Corynebacterrium, Bacilusanthracis, Haemophilus, Moraxellabovis, Treponemahyodysenteriae, Mycoplasmahyopneum oniae, M. hyosynovial, M. hyohinis,… Sự phối hợp hai kháng sinh trên có tác động cộng hưởng làm tăng khả năng diệt vi khuẩn mạnh hơn. Hiệu quả cao trong phòng trị các bệnh đường hô hấp và tiêu hóa.
- Chỉ định: Thuốc MG - 200 chủ trị hen CRD, hen ghép CCRD, suyễn heo. Nhờ công thức phối chế hợp lý và đặc biệt làm tăng hiệu quả của MG - 200 trong điều trị các bệnh hen gà (CRD), khẹc vịt, sưng phù đầu (coryza), suyễn heo, tụ huyết trùng (Pasteurella), viêm màng phổi có dịch (Haemophilus), viêm phổi, tụ huyết trùng và các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp khác trên: gà, vịt, ngan, cút, heo.
MG - 200 làm giảm cơn hen nhanh chóng, giúp gà dễ thở và rút ngắn thời gian điều trị ngay cả trong trường hợp bệnh nặng và bệnh ghép.
- Liều lượng và cách dùng:
+ Trộn thức ăn hay pha nước uống: dùng 3 – 5 ngày.
+ Gia cầm và thủy cầm: 1g/ 2 – 4 lít nước uống.
Thuốc Cocired
Là sự phối hợp của Sulfadimerazin và Diaveridine.
- Tính chất:
Sulfadimerazin có tác dụng với cầu trùng ở tất cả các giai đoạn. Sulfadimeriazin có tác dụng nhanh, hấp thụ nhanh đối với gia cầm, vì vậy nó được dùng để chữa bệnh: bệnh cầu trùng ở gà và thỏ.
Diaveridine là chất kháng khuẩn, được sử dụng cho nhiễm khuẩn cầu trùng và nhiễm khuẩn đường ruột.
Cocired là loại thuốc đặc biệt chống các loại cầu trùng ký sinh ở ruột non và ruột già gây tiêu chảy, phân có máu tươi, phân nhớt, phân nhày trên gia cầm.
- Liều lượng và cách dùng:
+ Trộn thức ăn hoặc pha nước uống.
+ Gia cầm và thủy cầm: 4g/ 1 - 2 lít nước uống.
Thuốc Moxcolis
- Với công thức đặc biệt cho khả năng điều trị vượt trội các bệnh truyền nhiễm gây ra do nhóm vi sinh vật nhạy cảm với Amoxycillin và Colistin như: Nhiễm khuẩn dạ dày - ruột do E. coli, Salmonella, Clostridium perfringens; nhiễm khuẩn đường hô hấp do Mycoplasma, Hemophilus, tụ huyết trùng, Coryza; nhiễm khuẩn đường tiết niệu và hội trứng MMA…
Khuyến cáo dùng cho chống stress do chủng vắc xin, cắt mỏ, thay đổi thời tiết, chuyển cám hoặc di chuyển gà thịt, gà đẻ, vịt, chim cút…
- Liều lượng và cách dùng:
+ Gia cầm: 1g/2 lít nước hoặc 1g/10kg thể trọng. Liệu trình 3 - 5 ngày.
Pha nước uống hoặc trộn thức ăn. Thuốc đã pha phải sử dụng hết trong 2
- 3 giờ.
+ Quy cách: Đóng gói 500g x 10 gói
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nhìn chung chăn nuôi gia cầm ở nước ta đang phát triển khá nhanh và vững chắc cả về quy mô, sản lượng, chất lượng và hiệu quả. Trong đó chăn nuôi gà phát triển mạnh thì ảnh hưởng của dòng giống, mùa vụ và dịch bệnh xảy ra cũng là một vấn đề lớn cần phải giải quyết vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới ngành chăn nuôi.
Ở nước ta các công trình nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của mùa vụ đối với gà thịt cũng được quan tâm đến.
Theo Phan Cự Nhân và Trần Đình Miên, (1998) [9] cho biết, tốc độ mọc lông là tính trạng di truyền liên kết với giới tính, trong cùng một dòng gà thì gà mái có tốc độ mọc lông đều hơn gà trống, đó là hormone tác dụng ngược chiều với gen liên kết giới tính. Trong cùng một giống, cùng giới tính, ở gà có tốc độ mọc lông nhanh có tốc độ sinh trưởng, phát triển tốt hơn.
Ảnh hưởng của dịch bệnh là điều mà tất cả mọi người đều rất quan tâm vì nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới vật nuôi mà còn lây lan dịch bệnh, giảm hiệu quả chăn nuôi và gây thiệt hại kinh tế.
Theo Nguyễn Hữu Vũ, Nguyễn Đức Lưu (2001) [16], tác nhân gây bệnh CRD là Mycoplasma gallisepticum, tỷ lệ nhiễm bệnh ở miền Bắc Việt Nam là 51,6% ở gà thương phẩm, còn gà giống là 10%, tỷ lệ đẻ trứng giảm 20 - 30%.
Phạm Sỹ Lăng và Trương Văn Dung, (2002) [8] cho biết, bệnh CRD có thể làm giảm tỷ lệ đẻ trứng xuống tới 30%, giảm tỷ lệ ấp nở tới 14% và giảm trọng lượng của gà thịt thương phẩm tới 16%. Ngoài ra bệnh còn kết hợp với
các bệnh khác như: Newcastle, viêm phế quản truyền nhiễm, tụ huyết trùng, bệnh do E. coli,... đã gây nên những vụ dịch với tỷ lệ chết cao.
Hoàng Huy Liệu (2002) [23] cho biết, bệnh CRD do 3 loài Mycoplasma
gây ra: M. gallisepticum, M. synoviae, M. meleagridis. Nhưng chủ yếu là loài
M. gallisepticum. Mycoplasma có nghĩa là “dạng nấm”, nhìn dưới kính hiển vi thì giống như tế bào động vật nhỏ, không nhân; gallisepticum có nghĩa là “gây độc cho gà mái”. Điều này được thấy rõ tỷ lệ nhiễm bệnh ở gà đẻ trứng rất cao và sản lượng trứng được giảm đáng kể.
Hoàng Hà (2009) [25] cho biết, trong tự nhiên thời gian ủ bệnh CRD từ 3 - 8 tuần tuổi. Bệnh CRD rất phổ biến ở gà và tỷ lệ gà bị nhiễm bệnh này là rất cao: 10 - 15% (ở đàn gà giống), 30 - 40% (ở đàn gà thịt) và 70 - 80% (ở đàn gà đẻ).
Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Đình Quyến, Phạm Văn Ty, (2007) [4] cho biết, năm 1898, Nocard E. và cs lần đầu tiên phân lập được Mycoplasma từ bò bị bệnh viêm phổi màng phổi truyền nhiễm. Khi đó được gọi là vi sinh vật viêm màng phổi (PPO: Pleuropneumonia organism). Về sau người ta tiếp tục phân lập được PPO từ các động vật khác và đổi tên là vi sinh vật loại viêm màng phổi (PPLO:Pleuropneumonia like organism). Từ năm 1955, PPO và PPLO được chính thức đổi thành Mycoplasma.
Trường Giang (2008) [24] cho biết, trên gà thịt: bệnh hay xảy ra lúc đàn gà được 4 - 8 tuần, triệu chứng thường nặng hơn so với các loại gà khác do sự phụ nhiễm các loại vi trùng khác mà thông thường nhất là E. coli, vì vậy trên gà thịt người ta còn gọi là thể kết hợp E. coli - CRD (C-CRD) với các triệu chứng giảm ăn, chảy nước mũi, xuất hiện âm rale khí quản, ho, viêm kết mạc mắt, chảy nước mắt, sưng đầu, gà ủ rũ và chết sau khi mắc bệnh 3 - 4 ngày, tử số có thể lên đến 30%, số còn lại chậm lớn. Trên gà trưởng thành - gà đẻ: bệnh phát ra khi thay đổi thời tiết, tiêm phòng, chuyển chuồng, cắt mỏ…, các triệu
chứng chính vẫn là chảy nước mũi, thở khò khè, ăn ít, gà trở nên gầy ốm, gà đẻ giảm sản lượng trứng, trứng ấp nở cho ra các gà con yếu ớt. Ở một số đàn gà đẻ đôi khi chỉ thấy xuất hiện sự giảm sản lượng trứng, gà con yếu, tỷ lệ ấp nở kém, còn các triệu chứng khác không thấy xuất hiện.
Hồ Thị Thuận, (1985) [13] cho biết gà nuôi công nghiệp ở một số nơi phía nam nhiễm 5 loại cầu trùng: E. brunetti, E. tenella, E. maxima,
E. necatrix, E .mitis.
Tác giả Hoàng Thạch, (1999) [11], xác định rằng có 6 loại cầu trùng ký sinh ở gà nuôi tại thành phố Hồ Chí Minh và một số vùng phụ cận: E. brunetti,
E. acervulina, E. tenella, E. maxima, E. necatrix, E. mitis.
Theo Dương Công Thuận, (1995) [14], có 4 loài cầu trùng gây bệnh ở các trại gà: E. tenella, E. maxima, E. necatrix, E. mitis.
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [7] và nhiều tác giả khẳng định: bệnh cầu trùng thường gây bệnh nặng ở gà con, gà lớn thường mang căn bệnh và là nguồn gieo truyền căn bệnh làm ô nhiễm môi trường. Vì vậy biện pháp quan trọng là phòng bệnh cho gà con không bị nhiễm cầu trùng.
Theo Trần Văn Hòa và cs, (2001) [5], gà nhiễm cầu trùng bằng con đường duy nhất là miệng thông qua những chất mà gà thường xuyên tiếp xúc như: thức ăn, chất độn chuồng, phân, bụi... Mặc dù bình thường, bệnh cầu trùng gắn liền với chăn nuôi thâm canh cải tiến trong đó một số lượng lớn gà nuôi chung với nhau. Điều quan trọng là phải biết rằng bất kỳ điều kiện nào dẫn tới việc nuôi quá đông và tích tụ ô nhiễm phân trong môi trường đều có thể là tiền đề của căn bệnh quan trọng này, vì vậy các ổ dịch bệnh cầu trùng có thể xảy ra ở thôn xóm cũng như ở các xí nghiệp hiện đại.
Theo Nguyễn Lân Dũng và cs, (1995) [3], E. coli có sức đề kháng kém, bị diệt ở nhiệt độ 550C trong 1 giờ và ở 600C trong vòng 30 phút. Các chất sát
trùng thông thường như nước gia ven 0,5%, Phenol 0,5% diệt được E. coli sau 2 - 4 phút.
2.2.2.2. Tình hình nghiên cứu thế giới
Brandsch và Biilchel, (1978) [1], tốc độ mọc lông là tính trạng di truyền liên quan tới đặc điểm trao đổi chất, sinh trưởng và phát triển của gia cầm. Gia cầm có tốc độ mọc lông nhanh, thành thục về thể vóc sớm thì chất lượng thịt tốt hơn.
Kojima và cs, (1997) [18] đã sử dụng phương pháp PCR để phát hiện mầm bệnh thuộc 9 loài Mycoplasma của gia cầm trong vắcxin sống tạo từ phôi gà với độ nhạy cảm khá cao. Tuy nhiên, chưa có một cặp mồi nào được khẳng định là đặc trưng cho toàn bộ lớp mollicus mà không nhân lên các loại vi khuẩn khác.
Woese và cs, (1980) [20] đã phân tích, so sánh trình tự gen 16S rARN của đại diện các giống Mycoplasma, Spiroplasma, Acholeaplasma và họ cho rằng, các giống này được tiến hóa ngược từ một nhánh vi khuẩn yếm khí là tổ tiên của họ Bacillus và Lactobacillus ngày nay.
Yogev và cs, (1988), [21] đã sử dụng mẫu dò trên gen rARN để phát hiện sự khác nhau bên trong và giữa hai loài MG và loài MS.
Năm 1984 Glison và Kleven đã nghiên cứu về hiệu quả sử dụng vắc xin nhược độc và vắc xin chết nhằm khống chế lây truyền MG qua trứng (dẫn theo Phạm Sỹ Lăng và Trương Văn Dung, (2002)).
Theo tài liệu của Chanbers J. R. (1990) [17], thì nhiều gen ảnh hưởng đến sự phát triển của gà. Có gen ảnh hưởng đến sự phát triển chung hoặc ảnh hưởng tới sự phát triển theo nhóm tính trạng hay một vài tính trạng riêng lẻ.
Theo Siegel và Dumington, (1978) [22], thì những alen quy định tốc độ mọc lông nhanh phù hợp với tăng khối lượng cao. Trong cùng một dòng gà mọc lông nhanh thì gà mái mọc lông nhanh hơn gà trống.