Trong Áp Dụng Pháp Luật Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Phải Đảm Bảo Nghiêm Minh, Đúng Người, Đúng Tội, Đúng Pháp Luật, Kết Hợp Chặt

phải xét xử thì nên áp dụng những hình phạt không tước tự do, hoặc những hình phạt có tính chất tự cải tạo giáo dục như: cảnh cáo, phạt tiền, cấm đi khỏi nơi cư trú, án treo… Nếu buộc phải áp dụng hình phạt tù giam thì phải áp dụng mức hình phạt nhẹ hơn so với người thành niên phạm tội tương ứng. Ngoài ra, thông qua việc xét xử NCTN phạm tội tòa án phải tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, có hay không xúi giục của người lớn? Từ đó xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội để áp dụng trách nhiệm hình sự tương xứng.

Có thể nói chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta luôn đặt NCTN ở vị trí trung tâm. Vì vậy, mọi qui định, hình thức xử phạt đều nhằm giúp đỡ, giáo dục hướng NCTN phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.

3.1.2. Trong áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội phải đảm bảo nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, kết hợp chặt chẽ cưỡng chế với giáo dục thuyết phục

Con người trong đó có trẻ em luôn được xác định là mục tiêu, là động lực của cách mạng. Ở nước ta việc chăm lo cho NCTN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ luôn là nhiệm vụ trọng tâm của mọi chủ trương, chính sách mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.

Nghị quyết 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020 đã xác định:

Hoàn thiện pháp luật về hoạt động nghề nghiệp của những người hành nghề y, dược, về dân số, gia đình, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, về người khuyết tật. Thời gian qua, Nhà nước đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản qui phạm pháp luật quan trọng liên quan đến người chưa thành niên nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng ngày một phù hợp hơn với pháp

luật quốc tế. Đồng thời Nghị quyết số 48 cũng chỉ rò: … phát huy cao độ nội lực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa [2].

Chủ động hội nhập quốc tế cũng đồng nghĩa với việc thiết lập các mối quan hệ xã hội mới, trên cơ sở tuân thủ các qui định mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận. Để các cam kết quốc tế được thực hiện một cách đầy đủ thì mỗi quốc gia là thành viên trong đó có Việt Nam đều phải nội luật hóa các cam kết đó. Pháp luật quốc tế về quyền trẻ em, về áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội thể hiện quan điểm nhân đạo, trách nhiệm của nhà nước và xã hội đối với người chưa thành niên theo tinh thần bảo đảm lợi ích tốt nhất, tạo cơ hội cho người chưa thành niên phạm tội được giáo dục, cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Thực tiễn hoạt động xét xử các vụ án NCTN phạm tội cho thấy muốn ADPL để xét xử đúng người đúng tội đối với người chưa thành niên phạm tội thì phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh trong nước, phù hợp với xu hướng phát triển tích cực, tiến bộ của thế giới. Quyền và lợi ích của NCTN được qui định trong rất nhiều văn bản QPPL như: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Lao động năm 2002, Bộ luật Hình sự và TTHS… Đây là những văn bản pháp lý quan trọng, toàn diện và đầy đủ để bảo đảm và bảo vệ quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng. Việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả của các qui định nói trên trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá là yếu tố vô cùng quan trọng, làm tăng tính phòng ngừa thông qua tác động của luật pháp và chính sách đối với NCTN phạm tội. Tuy nhiên, trong những năm gần đây thực trạng NCTN phạm tội trên địa bàn tỉnh Thanh

Hoá diễn biến rất phức tạp và có xu hướng gia tăng. Số NCTN phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng như tội giết người, tội cướp tài sản, tội trộm cắp… chiếm một tỉ lệ đáng kể. Thực tế trên đã ảnh hưởng không nhỏ tới trật tự trị an xã hội trong tỉnh, có tác động xấu tới công tác tuyên truyền giáo dục, phòng ngừa thanh thiếu niên phạm tội. Các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động của mình đã sử dụng nhiều biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm do NCTN gây ra. Hoạt động ADPL trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội của Tòa án góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh đó. Mặt khác, thông qua hoạt động ADPL để kiến nghị với các cấp, các ngành và mỗi gia đình tăng cường quản lý, giáo dục đối với NCTN đảm bảo cho các em được phát triển lành mạnh trong những môi trường tốt nhất. Đây vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ và trách nhiệm đặt ra đối với chủ thể ADPL trong xét xử NCTN phạm tội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá phải căn cứ vào diễn biến tình hình tội phạm của NCTN và những yêu cầu của công tác giáo dục thanh thiếu niên, nhi đồng trên địa bàn tỉnh trong điều kiện kinh tế, văn hóa, giáo dục có những bước khởi sắc. Để thực hiện được điều đó cần chú ý những quan điểm cơ bản sau:

+ Hoạt động ADPL trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội phải tập trung xử lý một cách nghiêm minh kịp thời các loại tội phạm đang có chiều hướng gia tăng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá như: các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe… Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án có thể kiến nghị các cơ quan hữu quan có những biện pháp quản lý, giáo dục và ngăn ngừa NCTN phạm tội cùng với cơ quan Tòa án.

Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội – Qua thực tiễn tỉnh Thanh Hoá - 12

+ Việc đấu tranh ngăn chặn NCTN phạm tội hiện nay bằng cách áp dụng các chế tài nghiêm khắc là hết sức cần thiết và phù hợp nhưng phải chú ý tới yêu cầu giáo dục, cảm hóa NCTN phạm tội, tạo điều kiện để họ tự sửa chữa sai lầm, khuyết điểm trở thành công dân có ích cho xã hội.

+ Bên cạnh đó có thể thấy diễn biến tình hình tội phạm do NCTN gây ra ngày một phức tạp, những vụ án có NCTN phạm tội có tính manh động, sẵn sàng sử dụng vũ lực xâm hại tính mạng, sức khỏe và xâm phạm sở hữu ngày càng gia tăng. Việc ADPL của Tòa án trong xét xử sơ thẩm NCTN phải dựa trên cơ sở đánh giá đúng diễn biến tình hình, xác định chính xác nguyên nhân, điều kiện phạm tội để giải quyết vụ án có hiệu quả, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá

3.2.1. Nhóm giải pháp chung

3.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự

Trong quá trình lập pháp, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hệ thống pháp luật Hình sự và pháp luật Tố tụng hình sự tương đối đồng bộ, chặt chẽ. Trong đó có qui định riêng về trình tự, thủ tục khi áp dụng đối với những vụ án do NCTN phạm tội. Tuy nhiên, các qui định này thường được áp dụng theo kiểu cần lưu ý thêm “ngoài việc áp dụng các qui định đối với người đã thành niên” chứ chưa có tính thống nhất cao. Mặt khác, các qui định đối với NCTN phạm tội trong pháp luật Hình sự và pháp luật Tố tụng hình sự mới chỉ là những qui định chung mang tính nguyên tắc nhiều hơn là mang tính “thân thiện” với người chưa thành niên phạm tội.

Thực tiễn áp dụng pháp luật còn nhiều vướng mắc do pháp luật TTHS qui định trình tự, thủ tục giải quyết vụ án do người chưa thành niên phạm tội có người bị hại, người làm chứng còn chung chung, không rò dàng, cụ thể. Vì vậy tác giả cho rằng khi xây dựng BLTTHS tới đây cần giành hẳn một chương riêng qui định đầy đủ các hoạt động tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội, người bị hại, người làm chứng là trẻ em mà không cần phải áp

dụng chung các qui định đối với người đã thành niên, trong đó cần qui định một số nội dụng sau:

Thứ nhất, để hạn chế tối đa và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm quyền trẻ em thì BLTTHS cần ghi nhận các nguyên tắc bảo vệ quyền trẻ em không bị xâm phạm bởi bất kỳ hành vi trái pháp luật nào như quyền được giữ bí mật đời tư, quyền nhận dạng của người làm chứng, ghi nhận những qui định của pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã ký kết tham gia…

Thứ hai, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất đối với người chưa thành niên như bắt, tạm giữ, tạm giam thì BLTTHS nước ta chỉ qui định về thời hạn tạm giữ, tạm giam chung cho người chưa thành niên và người thành niên. Tuy nhiên, theo qui định tại Điều 37 Công ước Quốc tế về quyền trẻ em thì: “Sự bắt bớ, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em phải được tiến hành theo luật pháp và chỉ được dùng đến như một biện pháp cuối cùng, trong thời gian thích hợp ngắn nhất” [15]. Do đó, để hướng tới việc thực hiện những qui định của pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết thì nên bổ sung qui định về thời hạn tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên ngắn hơn đối với người đã thành niên.

Đồng thời, theo qui định tại Điều 303 BLTTHS thì biện pháp bắt quả tang, bắt khẩn cấp đối với người chưa thành niên phạm tội còn mang tính hình thức, bởi trên thực tế hầu như qui định này không thể áp dụng được. Ngay khi bắt quả tang hay khẩn cấp thì khó có thể xác định được người thực hiện hành vi phạm tội là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hay từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi hoặc là người đã thành niên và họ phạm vào loại tội nào. Để nâng cao tinh thần đấu tranh phòng chống tội phạm của nhân dân và để những qui định của pháp luật có tính khả thi thì không nên qui định biện pháp bắt quả tang và bắt khẩn cấp giữa người chưa thành niên và người đã thành niên.

Thứ ba, liên quan đến hoạt động lấy lời khai, hỏi cung người chưa thành niên và trẻ em. BLTTHS nước ta chỉ qui định chung về việc triệu tập lấy lời khai, biên bản lấy lời khai và hỏi cung bị can cho đối tượng là NCTN và người đã thành niên. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền và lợi ích tốt nhất cho trẻ em thì nên bổ sung qui định về địa điểm lấy lời khai, thời gian và số lần lấy lời khai; bên cạnh đó thái độ và ngôn ngữ của người tiến hành lấy lời khai phải mang tính chất thân thiện để làm giảm bớt sự căng thẳng, sợ hãi của NCTN khi tiếp xúc với người tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó pháp luật chỉ qui định cho người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì phải có gia đình tham dự quá trình hỏi cung. Còn trường hợp người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì qui trình tố tụng như những người thành niên khác là điều chưa hợp lý. Vì nếu qui định như vậy thì chúng ta phân biệt NCTN và người thành niên không có ý nghĩa gì. Nên chăng cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung kịp thời qui định này?

Thứ tư, liên quan đến quyền bào chữa của bị can là người chưa thành niên. Việc xác định những trường hợp cụ thể nào có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can là NCTN, tác giả thấy rằng: Theo qui định tại khoản 2 Điều 19 Pháp lệnh Luật sư được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 25/7/2001 và có hiệu lực kể từ ngày 01/10/2001 thì Công ty luật hợp danh…. không được thực hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng. Như vậy, theo qui định này thì có thể hiểu các Luật sư là thành viên của Công ty luật không được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa nói chung và là người bào chữa cho người chưa thành niên phạm tội nói riêng. Ngày 29/6/2006, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua luật Luật sư (Luật này có hiệu lực từ ngày 01/1/2007) thay thế pháp lệnh luật sư năm 2001. Theo tinh thần qui định của luật này thì người

có đủ tiêu chuẩn để trở thành Luật sư, đã được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và đã gia nhập Đoàn luật sư đều có thể hành nghề luật sư trong các lĩnh vực mà luật sư hoặc tổ chức hành nghề nơi luật sư đó là thành viên đã đăng ký. Như vậy, việc luật sư nào có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa không phụ thuộc vào việc họ hành nghề trong công ty luật hợp danh, văn phòng luật sư hay hành nghề với tư cách cá nhân. Song theo qui định tại khoản 3 Điều 139 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì quan hệ đại diện được xác lập theo pháp luật hoặc theo ủy quyền; điều này có thể hiểu là người đại diện hợp pháp là người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 139 Bộ luật Dân sự qui định thì cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật qui định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó. Như vậy, trong tố tụng hình sự không có đại diện theo ủy quyền của người bị tạm giữ, bị can mà chỉ có người đại diện của những người này theo pháp luật. Việc xác định trường hợp nào là đại diện theo pháp luật của người bị tạm giữ, bị can là NCTN được thực hiện theo qui định tại khoản 1,2 Điều 141 Bộ luật Dân sự. Như vậy họ có thể là cha, mẹ, người giám hộ của NCTN. Về Bào chữa viên nhân dân cho đến nay chưa có một văn bản nào chính thức qui định hoặc giải thích về những tiêu chuẩn của người được công nhận là Bào chữa viên nhân dân. Tác giả cho rằng, để bảo đảm cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự nói chung và người chưa thành niên phạm tội nói chung thì Bào chữa viên nhân dân cũng phải đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định. Hiện nay, Tòa án nhân dân Tối cao đang phối hợp với các cơ quan có liên quan soạn thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn về vấn đề này. Vậy tiêu chuẩn để có thể được công nhận là bào chữa viên nhân dân chúng tôi đề nghị cân nhắc và thể hiện trong dự thảo Thông tư liên tịch như sau: là công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên, là thành viên một tổ chức của Mặt trận tổ quốc Việt Nam; trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực; có kiến thức pháp lý; có sức khỏe để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ; không thuộc một trong các trường hợp không được bào chữa qui định tại khoản 2 và 3 Điều 56 BLTTHS.

Do nhận thức, kinh nghiệm sống của NCTN còn nhiều hạn chế, nên trong quá trình điều tra nhiều em không có khả năng trả lời một cách đầy đủ, khách quan, toàn diện, chính xác về những tình tiết của vụ án. Thiết nghĩ các cơ quan tố tụng nên thống nhất hướng dẫn cụ thể về thủ tục, trình tự cũng như về thời hạn phân công người bào chữa, để người bào chữa tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên phạm tội càng sớm càng tốt. Để tạo điều kiện tốt nhất cho người bào chữa thực hiện việc bào chữa, cũng chính là đảm bảo tốt nhất quyền được bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can theo tinh thần cải cách tư pháp, cần phải có qui định rò ràng, thống nhất về các loại giấy tờ liên quan khi thực hiện việc cấp giấy chứng nhận bào chữa.

Thứ năm, liên quan đến vấn đề quản lý, chăm sóc, bảo lãnh và giám sát đối với NCTN phạm tội. Theo qui định tại Điều 304 BLTTHS thì không đặt ra trách nhiệm cụ thể đối với người có nghĩa vụ giám sát khi họ vi phạm nghĩa vụ giám sát để bị can là NCTN bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Do không qui định trách nhiệm hay biện pháp chế tài gì đối với họ nên hiệu quả của biện pháp giám sát này không cao. Đối với NCTN phạm tội là người không còn cha mẹ, không có nơi cư trú rò ràng hoặc là người lang thang, cơ nhỡ thì nhiệm vụ chăm sóc và giám sát phải chăng nên giao cho cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ và chăm sóc trẻ em, đó chính là Cơ quan Lao động thương binh và xã hội. Như vậy, nên bổ sung qui định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Cơ quan lao động thương binh và xã hội, đồng thời qui định quan hệ phối hợp giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng với

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/06/2022