đến đặc điểm cũng như thực hiện. Nghiên cứu vấn đề này cũng là đáp ứng yêu cầu đòi hỏi từ thực tiễn đặt ra của vấn đề áp dụng pháp luật trong trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài "Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong GQKN là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, số lượng các bài viết, công trình nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong GQKN, GQKN về đất đai được tăng lên rò rệt, trong đó phải kể đến những công trình tiêu biểu sau:
- Một số công trình nghiên cứu đã đưa ra các giải pháp liên quan đến thẩm quyền, trình tự và thủ tục GQKNTC hành chính và đề cập đến công tác GQKNTC hành chính trong một số lĩnh vực cụ thể, ví dụ: Việc thực hiện thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan nhà nước và trách nhiệm của các cơ quan thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu nại hành chính (Phạm Văn Long, đề tài khoa học cấp Bộ của Thanh tra Chính phủ năm 2005); Xây dựng quy trình giải quyết khiếu nại hành chính (Ngô Mạnh Toan, đề tài khoa học cấp Cơ sở của Thanh tra Chính phủ năm 2005); Vấn đề đối thoại trong giải quyết khiếu nại hành chính (Nguyễn Tiến Bình, đề tài khoa học cấp Cơ sở của Thanh tra Chính phủ năm 2005); Tiền tố tụng hành chính - Thủ tục bắt buộc trước khi khởi kiện hành chính (ThS. Nguyễn Thị Thủy, Tạp chí Luật học, số 10/200 ); Việc thụ lý để giải quyết khiếu nại hành chính - từ lý luận đến thực tiễn (Nguyễn Quốc Tuấn, Tạp chí Thanh tra, số 6/2005); Thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước (Nguyễn Thị Minh Hà, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội); Thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai, nhà ở hiện nay -
Những vấn đề đặt ra và giải pháp (Ngô Đăng Huynh, đề tài cấp Bộ của Thanh tra Chính phủ năm 2003); Hoàn thiện những qui định của Luật Khiếu nại, tố cáo về giải quyết khiếu nại, tố cáo đông người (ThS. Trần Văn Sơn, Tạp chí Thanh tra, số /2005); Việc áp dụng pháp luật để giải quyết khiếu nại về đất đai (ThS. Nguyễn Tuấn Khanh, Tạp chí Thanh tra, Số 5/2008); Hòa giải - Biện pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự (Phạm Quốc Toản, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề tháng /2006)...
- Một số bài viết, công trình khoa học đề cập đến công tác kiểm tra, giám sát hoạt động GQKNTC hành chính ở những góc độ khác nhau. Ví dụ: Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố cáo và chống tham nhũng - thực trạng và kiến nghị (Phạm Văn Khanh, đề tài khoa học cấp Bộ của Thanh tra Chính phủ năm 2004); Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo (Bùi Nguyên Súy, đề tài khoa học cấp Bộ của Thanh tra Chính phủ năm 200 ); Trách nhiệm của đại biểu dân cử trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân (ThS. Đào Xuân Tiến, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 02/2005); Tăng cường giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước - giải pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (TS Trần Văn Sơn, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8/2005)...
- Đứng trước yêu cầu của thực tiễn, đã có một số công trình nghiên cứu nhằm đưa ra các giải pháp đổi mới cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo (GQKNTC) hành chính (thậm chí có những công trình, bài viết đề cập đến mô hình GQKN hành chính còn đang có những ý kiến khác nhau về vị trí, vai trò, thẩm quyền), ví dụ: Một số vấn đề về tài phán hành chính ở Việt Nam (PTS Lê Bình Vọng, Nxb Chính trị quốc gia năm 1994); Tài phán hành chính - nhìn từ góc độ Luật so sánh (Nguyễn Văn Quang, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, năm 1999); Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính (Nguyễn Văn Thanh, đề tài khoa học cấp Bộ của Thanh tra Chính
phủ năm 2004); Một số khía cạnh của việc nâng cao hiệu suất hoạt động của Tòa hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính (Vũ Thư, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2003); Cơ quan tài phán hành chính - nhận thức mới, giải pháp mới cho một vấn đề không mới (Đinh Văn Minh, Tạp chí Thanh tra, 2005); Đổi mới cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính và việc thành lập cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam (ThS. Nguyễn Tuấn Khanh, Tạp chí Mặt trận Tổ quốc, Số 11/200 ); Đổi mới cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện hành chính ở nước ta hiện nay (PGS.TS.Bùi Xuân Đức, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số 5/2008); Trao đổi thêm về việc áp dụng Điều 136 Luật đất đai năm 2003 (Phạm Thanh Hải, Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Hà Tây, Tạp chí Tòa án, tháng 5/2005); Những vấn đề cần trao đổi khi áp dụng Điều 136 Luật đất đai năm 2003 (TS Nguyễn Văn Cường, Tạp chí Tòa án tháng 8/2005); Những vấn đề trao đổi khi áp dụng Điều 136 Luật đất đai năm 2003 (Ban biên tập Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 9/2005).
Ngoài ra, trên các tạp chí khác như: Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí dân chủ và pháp luật cũng có những bài viết nghiên cứu về việc áp dụng pháp luật.
Có thể bạn quan tâm!
- Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội - 1
- Khái Niệm Và Đặc Điểm Giải Quyết Khiếu Nại
- Khái Niệm Và Đặc Điểm Giải Quyết Khiếu Nại Về Đất Đai
- Khái Niệm Và Đặc Điểm Áp Dụng Pháp Luật Trong Giải Quyết Khiếu Nại Về Đất Đai
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
Nội dung nghiên cứu trong các công trình nói trên mới dừng lại ở mức độ chung nhất về GQKNTC hành chính và công tác kiểm tra, giám sát việc GQKNTC hành chính hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, cải cách hành chính và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể trực tiếp về áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận để đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật trong GQKN về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội, tìm ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. Từ
đó, đề xuất một số giải pháp phù hợp và khả thi nhằm nâng cao hiệu áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
Một là, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản, làm rò các khái niệm, đặc điểm của khiếu nại, GQKN; khái niệm đất đai, GQKN về đất đai, đặc điểm GQKN về đất đai; khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật về GQKN đất đai; những yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng pháp luật trong GQKN về đất đai; kinh nghiệm áp dụng pháp luật trong GQKN về đất đai ở một số địa phương và bài học kinh nghiệm đối với thành phố Hà Nội.
Hai là, phân tích đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội, qua đó thấy được những ưu điểm, hạn chế và tìm ra nguyên nhân dẫn tới những hạn chế đó.
Ba là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp phù hợp và có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2003 đến nay, tập trung chủ yếu vào giai đoạn từ sau nghị quyết của Quốc hội về việc điều chỉnh địa giới hành chính Thành phố Hà Nội (năm 2008) đến năm 2012.
- Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền khiếu nại của công dân và GQKN của công dân; chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về GQKN đất đai, về yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam.
Cơ sở lý luận nêu trên là nền tảng tư tưởng, lý luận để nghiên cứu vấn đề áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, lôgic, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, chú trọng việc thu thập các số liệu từ các báo cáo thực tế về GQKN đất đai ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và tương đối toàn diện áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội nên có những đóng góp mới như sau:
- Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Làm rò thực trạng áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội qua việc phân tích, so sánh, đánh giá, rút ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, làm tiền đề để đưa ra quan điểm và kiến nghị giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội góp phần ổn định và đáp ứng yêu cầu phát triển thành phố Hà Nội.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần hệ thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước, của Thành ủy Hà Nội về áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai.
- Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các CQHCNN trong việc xây dựng kế hoạch phát triển đô thị, quản lý và sử dụng đất đai có hiệu quả; ngăn ngừa và hạn chế nguyên nhân gây nên khiếu nại về đất đai cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về GQKN về đất đai.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI
1.1. QUAN NIỆM CHUNG VỀ KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI
1.1.1. Quan niệm về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân và là một trong những cách thức để công dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nếu giải quyết tốt các khiếu nại sẽ góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, xây dựng và phát triển đất nước.
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của khiếu nại
- Khái niệm khiếu nại
Khiếu nại được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội, khiếu nại theo gốc tiếng Latinh: "Complant", nghĩa là sự phàn nàn, phản ứng, bất bình của người nào đó về vấn đề có liên quan [34, tr. 205].
Theo Thuật ngữ pháp lý phổ thông thì khiếu nại là việc yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc người có chức vụ giải quyết việc vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân người khiếu nại [31, tr. 105].
Theo Đại Từ điển tiếng Việt, "khiếu nại (đgt): thắc mắc, đề nghị xem xét lại những kết luận, quyết định do cấp có thẩm quyền đã làm [39, tr. 904].
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ khiếu nại được đề cập đến như là sự phản ứng của các chủ thể trong xã hội đối với quyết định của các cơ quan nhà nước (cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp) hoặc hành vi của cán bộ, công chức, người làm việc trong cơ quan nhà nước khi họ cho rằng các quyết định, hành vi đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về khiếu nại nhưng nhìn chung, quan niệm về khiếu nại đều được hiểu như vậy. Theo Thuật ngữ pháp lý phổ thông, khiếu nại là việc yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc người có chức vụ giải quyết việc vi phạm các quyền hoặc lợi ích hợp pháp của bản thân người khiếu nại hay người khác.
Theo Từ điển tiếng Việt, khiếu nại được hiểu là đề nghị cơ quan có thẩm quyền xét một việc làm mà mình không đồng ý, cho là trái pháp luật hay không hợp lý... Những khái niệm trên được tiếp cận rất sát với sự phát triển của hệ thống qui định pháp luật về khiếu nại, vì vậy, nghĩa của thuật ngữ khiếu nại thường hẹp hơn so với những biểu hiện trong thực tế.
Nhìn lại lịch sử lập pháp của Việt Nam, thuật ngữ "khiếu nại" được sử dụng lần đầu tiên trong văn bản chính thức của Nhà nước Việt Nam là kể từ khi có Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/2945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Điều II Sắc lệnh qui định: "Ban Thanh tra đặc biệt có toàn quyền: Nhận các đơn khiếu nại của nhân dân...". Tinh thần và nội dung của bản Sắc lệnh cho thấy khiếu nại ở đây là chỉ sự khiếu nại của nhân dân đối với chính quyền mà hiện nay chúng ta quan niệm đó chính là khiếu nại đối với hoạt động của bộ máy nhà nước và công chức nhà nước mà trước hết là các CQHCNN. Tại Điều I, Sắc lệnh cũng đã xác định: "Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt, có ủy nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của Ủy ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ" [2].
Như vậy, việc khiếu nại vừa có ý nghĩa bảo vệ quyền lợi của người dân tránh sự vi phạm từ phía cơ quan nhà nước và cán bộ nhà nước vừa tạo ra cơ chế để giám sát hoạt động của chính quyền các cấp.
Năm 2000, trong một kết quả nghiên cứu của Thanh tra Nhà nước, khái niệm "khiếu nại" được hiểu rộng hơn, theo đó, khiếu nại theo nghĩa chung nhất là việc cá nhân hay tổ chức đề nghị cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào đó xem xét, sửa chữa lại một việc làm mà họ cho là không đúng đắn, gây