Những Yêu Cầu Khác Đối Với Di Chúc


thành nếu không phù hợp với đạo đức xã hội thì tính khả thi của nó sẽ bị hạn chế rất nhiều. Ngược lại, pháp luật là phương tiện để nâng đạo đức thành ý chí của một Nhà nước. Đạo đức xã hội là những trật tự công cộng, những thuần phong mỹ tục được hình thành từ một cơ sở kinh tế nhất định đã và đang được một cộng đồng người thừa nhận, tôn trọng. Với cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của Nhà nước ta hiện nay, đạo đức xã hội là việc giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam.

Việc lập di chúc có nội dung không trái pháp luật của một người mới chỉ là việc họ thực hiện bổn phận của một công dân. Ngoài bổn phận công dân, họ còn phải thực hiện bổn phận làm người. Đạo làm người đòi hỏi các cá nhân khi lập di chúc phải luôn hướng tới phong tục tập quán truyền thống nhân bản và tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết trong cộng đồng gia đình cũng như trong cộng đồng dân tộc. Vì vậy nếu nội dung di chúc có nội dung trái với đạo đức xã hội cũng sẽ bị coi là không hợp pháp.

Điều 653 Bộ luật Dân sự quy định về nội dung của di chúc như sau:

- Di chúc phải ghi rò ngày, tháng, năm lập di chúc. Việc ghi rò ngày, tháng, năm lập di chúc là căn cứ để xác định di chúc nào được lập trước, di chúc nào được lập sau trong trường hợp một người để lại nhiều bản di chúc thì bản di chúc lập sau cùng có hiệu lực thi hành.

- Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc. Với tư cách là chủ thể lập di chúc, người lập di chúc phải ghi rò họ, tên và nơi cư trú của mình, để có căn cứ xác định di chúc đó do ai lập ra, người đó có quyền lập di chúc hay không có quyền lập di chúc và việc đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp cho người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi lập di chúc. Chủ thể lập di chúc luôn luôn phải được xác định thông qua các yếu tố họ, tên, nơi cư trú của người đó. Ngược lại, nếu không biết rò người lập di chúc là ai thì di chúc đó vô hiệu do không xác định được người để lại di sản là ai.


- Di chúc phải ghi rò ai là người được hưởng di sản, là cá nhân hay tổ chức, nơi cư trú của cá nhân được chỉ định hưởng di sản, trụ sở của pháp nhân. Người lập di chúc còn có quyền xác định rò các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản.

- Người lập di chúc phải ghi rò di sản để lại bao gồm những tài sản gì, ở đâu. Di sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản thuộc quyền sở hữu của người lập di chúc (riêng đất đai là quyền sử dụng).

- Người lập di chúc có quyền chỉ định người thực hiện nghĩa vụ nào đó vì lợi ích chung hoặc riêng nhưng theo nguyên tắc của pháp luật thừa kế thì nghĩa vụ giao cho người thừa kế thực hiện không thể lớn hơn giá trị phần di sản mà người thừa kế được hưởng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

- Nếu người lập di chúc định đoạt phần tài sản dùng vào việc thờ cúng, phải ghi rò đó là loại tài sản nào, ở đâu, giao cho ai quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng, chỉ rò nghĩa vụ của người quản lý di sản này.

- Nội dung của di chúc nếu có phần liên quan đến tài sản dùng để di tặng thì người được di tặng là ai, ở đâu, được di tặng tài sản gì? bao nhiêu? ở đâu? Những yếu tố này cần phải được xác định cụ thể trong nội dung của di chúc.

Áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của Tòa án - 3

Ngoài ra, khoản 2 Điều 653 Bộ luật Dân sự còn quy định: "Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng kí hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh sống thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc".

d) Hình thức của di chúc không trái quy định của pháp luật

Hình thức của di chúc là phương thức biểu hiện ý chí của người lập di chúc (nội dung của di chúc); là căn cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc. Vì vậy, chỉ những di chúc lập ra đúng với hoàn cảnh mà pháp luật đã dự


liệu cũng như phù hợp với thủ tục, trình tự mà pháp luật đã quy định đối với từng loại di chúc tương ứng thì di chúc đó mới được coi là đã thỏa mãn các điều kiện này.

1.2.1.2. Những yêu cầu khác đối với di chúc

Bộ luật Dân sự của nước ta còn quy định một số vấn đề khác mà quá trình lập di chúc phải tuân theo nhằm tăng cường tính xác thực của di chúc, qua đó bảo vệ ý nguyện đích thực của người để lại di sản.

a) Yêu cầu đối với người chứng nhận, chứng thực và người làm chứng

di chúc

Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân

dân xã, phường, thị trấn là những người đại diện cho các cơ quan đó trong việc chứng nhận, chứng thực di chúc nhằm xác nhận về một di chúc là do chính người để lại tài sản tự nguyện lập ra trong trạng thái tinh thần minh mẫn, sáng suốt. Vì vậy, để tăng cường tính khách quan, bảo đảm độ trung thực trong việc chứng nhận, chứng thực di chúc, người chứng nhận, chứng thực phải là người không có liên quan gì đến việc hưởng di sản cũng như đến người thừa kế của người lập di chúc. Điều 659 Bộ luật Dân sự đã quy định về những người không được công chứng, chứng thực di chúc.

Công chứng viên, người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn không được công chứng, chứng thực đối với di chúc, nếu họ là:

1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

2. Người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật;

3. Người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

Nếu việc chứng nhận, chứng thực di chúc nhằm mục đích tạo cơ sở pháp lý để ghi nhận một sự kiện thực tế thì làm chứng trong di chúc cũng là việc góp phần nâng cao tính khách quan của di chúc. Muốn vậy, người làm


chứng phải là người đã thành niên và có đủ năng lực hành vi dân sự, đồng thời không có liên quan gì đến việc hưởng di sản của người lập di chúc. Điều 654 Bộ luật Dân sự quy định.

Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi

dân sự.

Như vậy, người làm chứng cho việc lập di chúc có thể là cha, mẹ, vợ

hoặc chồng, con của người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc nhưng không thể là người chứng nhận, chứng thực di chúc được. Bởi vì, trong mỗi trường hợp ấy, những người này mang một tư cách khác nhau: khi chứng nhận, chứng thực, họ mang tư cách là người đại diện một cơ quan nhà nước, còn khi làm chứng cho việc lập di chúc, họ hoàn toàn mang tư cách cá nhân.

b) Yêu cầu đối với việc xác định sự minh mẫn, sáng suốt của người lập di chúc

Về nguyên tắc, tất cả các di chúc đều được coi là do người để lại di sản lập ra trong khi minh mẫn, sáng suốt. Vì vậy, người nào khởi kiện vì cho rằng di chúc được lập ra khi người lập di chúc không còn minh mẫn, sáng suốt thì phải chứng minh điều đó trước Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Khi có đầy đủ cơ sở để khẳng định thiếu sự minh mẫn, sáng suốt nói trên và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thừa nhận thì di chúc mới được coi là vô hiệu. Thực tế thì những di chúc đã thông qua thủ tục chứng nhận, chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì ít khi xảy ra tranh chấp này. Tranh chấp về tính minh mẫn, sáng suốt của người lập di chúc thường chỉ xảy


ra đối với những di chúc tự lập không có chứng nhận, chứng thực. Vì vậy, muốn tránh sự tranh chấp nói trên thì tốt nhất người để lại di sản nên lập di chúc thông qua thủ tục có chứng nhận, chứng thực. Nếu không thể lập di chúc theo thể thức nói trên thì người lập di chúc cần nhờ người làm chứng xác nhận vào di chúc về tình trạng minh mẫn, sáng suốt của mình.

c) Yêu cầu đối với sự kiện được coi là điều kiện trong di chúc có điều kiện

Điều 125 Bộ luật Dân sự quy định:

1. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ.

2. Trong trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở của một bên hoặc của người thứ ba thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; Nếu có sự tác động của một bên hoặc của người thứ ba cố ý thúc đẩy cho điều kiện để làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra [17].

Quy định trên chỉ áp dụng đối với các giao dịch dân sự là hợp đồng hay được áp dụng cả với các giao dịch là hành vi pháp lý đơn phương?

Về mặt bản chất, điều luật trên vẫn có thể áp dụng đối với giao dịch là hành vi pháp lý đơn phương hay nói cụ thể hơn là đối với di chúc, vì trong di chúc cũng như trong các giao dịch một bên nói chung không cần có sự thỏa thuận nên người có ý chí đơn phương vẫn có quyền bằng ý chí ấy đưa ra các điều kiện. Vì lẽ đó nếu người lập di chúc có xác định về một sự kiện là điều kiện của di chúc thì chỉ khi nào sự kiện đó xuất hiện thì di chúc mới có hiệu lực.

Mặt khác, nếu người lập di chúc có đưa ra một điều kiện đối với người hưởng di sản thì chỉ khi nào người đó đáp ứng được các điều kiện này mới được hưởng di sản theo di chúc. Tất nhiên, các điều kiện mà người lập di chúc


đưa ra chỉ được coi là điều kiện để di chúc có hiệu lực pháp luật hoặc để người thừa kế được hưởng di sản theo di chúc đã lập khi các điều kiện đó đã đáp ứng được các yêu cầu theo tinh thần và nguyên tắc chung của pháp luật. Đó là:

- Các sự kiện để được coi là điều kiện trong di chúc phải mang tính khách quan: Sự kiện khách quan là những sự kiện nằm ngoài ý chí của con người. Vì vậy yêu cầu này đòi hỏi việc các sự kiện nói trên có xuất hiện trong thực tế hay không, khi nào xuất hiện, xuất hiện ở mức độ nào phải hoàn toàn nằm ngoài ý chí của người lập di chúc. Đồng thời, các sự kiện đó phải là những tình tiết trong tương lai (chỉ xuất hiện sau khi di chúc được lập thậm chí, sau khi người lập di chúc chết).

- Nếu điều kiện đó là công việc phải làm thì phải là những công việc có thể thực hiện được và phải hợp pháp.

Một công việc có thể thực hiện được hay không thường do hai yếu tố sau đây quyết định: một là do đặc tính của bản thân công việc nên công việc đó không thể thực hiện được; hai là do công việc đó trái đạo đức xã hội và đã bị pháp luật cấm làm. Vì vậy yêu cầu này đòi hỏi nếu sự kiện được xác định trong di chúc là một công việc phải làm thì công việc đó phải phù hợp với pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng trong thực tế có thể người lập di chúc dự liệu về một sự việc bất hợp pháp nhưng sự dự liệu lại vẫn được coi là hợp pháp. Ví dụ, trong di chúc, người để lại tài sản có dự liệu rằng nếu em trai họ xâm phạm đến sức khỏe của các con mình thì tài sản mà họ được thừa kế sẽ thuộc về em gái (cô ruột của các con).

1.2.2. Hiệu lực của di chúc

Một di chúc muốn có hiệu lực, trước hết phải được thừa nhận là hợp pháp. Một di chúc hợp pháp chưa hẳn đã là di chúc có hiệu lực, trong một số trường hợp, di chúc hợp pháp sẽ có hiệu lực trong từng thời điểm khác nhau. Cụ thể.


1.2.2.1. Thời điểm có hiệu lực của di chúc

- Đối với di chúc do một người lập ra: Theo quy định tại Điều 667 Bộ luật Dân sự, di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có di sản để lại theo di chúc chết hoặc người này được xác định là đã chết theo bản án tuyên bố chết có hiệu lực pháp luật.

Như vậy, di chúc chỉ được áp dụng trong việc chia di sản của người lập di chúc kể từ thời điểm người lập di chúc chết. Nếu người lập di chúc chưa chết thì cũng chưa có việc chia di sản của người đó. Quy định này là nguyên tắc pháp luật nhằm bảo vệ quyền của người lập di chúc khi còn sống, sau khi người lập di chúc chết thì tài sản của người này là di sản được chuyển dịch theo trình tự hưởng di sản của người được thừa kế theo di chúc.

Thừa kế di sản nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng là quan hệ pháp luật dân sự, do vậy quan hệ thừa kế theo di chúc cũng phải thỏa mãn các điều kiện của chủ thể trong quan hệ tài sản. Theo nguyên tắc này, nếu người thừa kế theo di chúc đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc thì phần di sản liên quan đến phần của di chúc chỉ định người đó được hưởng bị vô hiệu, không có hiệu lực pháp luật.

Người thừa kế được hiểu theo tư cách chủ thể của quan hệ, do vậy cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế của người để lại di chúc thì phần di sản liên quan đến phần của di chúc chỉ định cho các chủ thể này được hưởng bị vô hiệu, không thi hành được.

Điểm b khoản 2 Điều 667 Bộ luật Dân sự quy định:

Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật [17].


Di chúc không có hiệu lực trong trường hợp nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế của người để lại di chúc. Trường hợp này thường xảy ra trong đời sống xã hội và trong thời điểm di chúc được lập thì tài sản vẫn còn nhưng sau một thời gian tài sản đó lại do chính người lập di chúc chi tiêu, chuyển giao quyền sở hữu cho người khác hoặc tài sản bị tiêu hủy,...mà sau đó người lập di chúc không sửa lại di chúc, do vậy phần di chúc liên quan đến tài sản không còn vào thời điểm mở thừa kế của người lập di chúc không có hiệu lực thi hành. Nhưng nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần của di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực. Trong trường hợp người lập di chúc định đoạt tài sản cho nhiều người thì mỗi người được hưởng phần di sản còn lại tương ứng với nội dung của di chúc.

Theo khoản 4 Điều 667 Bộ luật Dân sự: Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.

Căn cứ xác định bản di chúc sau cùng của người để lại di sản là dựa vào ngày, tháng, năm di chúc đó được lập ra. Tuy nhiên, trong trường hợp di chúc lập sau cùng không có giá trị pháp lý do đã vi phạm các điều kiện có hiệu lực của di chúc thì di chúc lập trước đó có giá trị pháp lý không. Di chúc lập sau cùng bị vô hiệu do đã vi phạm điều kiện có hiệu lực của di chúc được quy định tại Điều 652 Bộ luật Dân sự về di chúc hợp pháp thì coi như không có di chúc này và di chúc được lập trước đó có hiệu lực thi hành. Cách hiểu này dựa trên căn cứ di chúc không có hiệu lực pháp luật, không thể thi hành được và giá trị pháp lý của di chúc này không tồn tại, coi như không có di chúc này; di chúc được lập trước đó vẫn giữ nguyên giá trị pháp lý vì chưa có di chúc nào thay thế và di chúc này được coi là di chúc sau cùng.

- Về di chúc chung của vợ chồng và hiệu lực của di chúc do vợ chồng lập chung: Luận văn trình bày ở mục 1.2.3 của chương này.

Xem tất cả 101 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí