Ảnh hưởng của yếu tố duy tình trong mối quan hệ giữa nhân viên quan hệ công chúng và nhà báo tại Việt Nam - 12


KẾT LUẬN


Từ những kết quả nghiên cứu có thể thấy, bước đầu có sự tồn tại của một tình cảm quý mến thân thiết giữa nhân viên QHCC và nhà báo. Tình cảm này có được thông qua việc hai nhóm đối tượng này thường xuyên gặp gỡ, giao lưu, tiếp xúc trong công việc, hỗ trợ lẫn nhau và thậm chí là thông qua việc chia sẻ những vấn đề cá nhân. Điều này được xây dựng và phát huy từ nét văn hóa giao tiếp ứng xử của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng. Việc hình thành mối quan hệ này có sự ảnh hưởng khá mạnh mẽ tới hiệu quả công việc của cả hai bên. Cũng thông qua khảo sát, đa số các ý kiến đều ủng hộ mối quan hệ này và hy vọng nó sẽ sớm trở thành mẫu quan hệ truyền thông tích cực tại Việt Nam.

Những kết quả đạt được bên trên dường như tương đồng với những kết quả nghiên cứu của Dan Berkowitz và Jonghyuk Lee (2004) khi cả 2 đều chỉ ra được rằng mối quan hệ trên có ảnh hưởng tích cực tới quan hệ truyền thông, làm nổi bật một mẫu quan hệ truyền thông tích cực mà không có bất kỳ sự nghi ngờ nào thường thấy như trong quan hệ truyền thông phương Tây.

Ngày nay, khi xã hội đang nghiêng về các giá trị thương mại và lợi nhuận, dẫn đến việc vô tình tạo ra những những mối quan hệ mang tính chất thực dụng, lợi dụng lẫn nhau để đạt được mục đích thì thực sự cần thiết có những mối quan hệ trọng tình nghĩa, được xây dựng bằng chính bản sắc văn hóa của người Việt. Mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo cũng vậy, để dần xóa bỏ những nhận định không tích cực của công chúng về mình thì cả hai bên cùng cần phải có sự thiện chí thay đổi và phát triển. Đối với doanh nghiệp, xây dựng được mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà


báo bền chặt và lâu dài chính là nhân tố giúp cho doanh nghiệp thành công. Bởi, thực tế cho thấy, sự phát triển của doanh nghiệp không thể tách rời với hoạt động báo chí, dù giữa họ là mối quan hệ ẩn chứa nhiều đối lập và mâu thuẫn nhưng cũng lại phụ thuộc, tương hỗ lẫn nhau, cùng nhau phát triển

Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và báo chí không còn là mới mẻ, nó đã được phân tích ở nhiều khía cạnh trong nhiều nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo, đưa ra các phương thức xây dựng mối quan hệ này thì mới được nhắc đến trong luận văn của Vũ Thị Thu Hà (2012). Kế thừa những kết quả nghiên cứu trên, luận văn lần đầu tiên tập trung đi sâu phân tích mối quan hệ này dưới góc độ văn hóa mà cụ thể hơn là văn hóa “duy tình” của người Việt. Hướng nghiên cứu về sự ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo vì thế mà không bị trùng lặp và nhàm chán.

Trong chương 1, luận văn đã phần nào làm rò khái niệm “duy tình” cùng những biểu hiện của nó trong các mối quan hệ xã hội nói chung, đó là việc lấy chữ Tình làm trọng, giữ gìn thể diện cho nhau và coi trọng cộng đồng. Đây không chỉ là đặc trưng của văn hóa Việt Nam nói riêng mà nó cũng tồn tại trong văn hóa của các nước phương Đông khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ… Không chỉ mang những đặc điểm của mối quan hệ nói chung, mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo kế còn chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của đặc trưng văn hóa phương Đông nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng, đặc biệt là văn hóa “duy tình”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Chương 2, luận văn trình bày về phương pháp khảo sát sự hiện diện của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo thông qua hình thức khảo sát bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu. Đối tượng được nhắm đến là các nhân viên QHCC đang hoạt động trong doanh nghiệp và


Ảnh hưởng của yếu tố duy tình trong mối quan hệ giữa nhân viên quan hệ công chúng và nhà báo tại Việt Nam - 12

các nhà báo đang tác nghiệp tại các cơ quan báo chí trên cả nước. Kết quả khảo sát đã chứng tỏ có sự tồn tại của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa hai nhóm đối tượng. Yếu tố “duy tình” này có sự ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động nghề nghiệp của cả hai bên, thể hiện qua những lợi ích thấy được và tình cảm giữa cá nhân với cá nhân ngày càng được gắn bó chặt chẽ. Mặt khác, các phỏng vấn sâu cũng được tiến hành đồng thời và thu được nhiều kết quả thú vị khi các cặp quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo cởi mở, thẳng thắn chia sẻ về mối quan hệ thân thiết đang tồn tại của họ.

Chương 3, luận văn đã chỉ ra sự ảnh hưởng của văn hóa “duy tình” này đối với cả nhân viên QHCC và nhà báo không chỉ là những ảnh hưởng tích cực mà cũng có những mặt trái cần được tiết chế và loại bỏ. Qua việc vận dụng lý thuyết truyền thông và kết quả khảo sát, luận văn đã đưa ra các giải pháp giúp cho việc xây dựng mối quan hệ trở nên thân thiết và bền chặt giữa nhân viên QHCC và nhà báo trong thực tiễn như: tăng cường việc liên lạc và gặp gỡ thường xuyên, xây dựng sự tin tưởng – cam kết – kiểm soát – hài hòa

– giữ thể diện cho nhau giữa nhân viên QHCC và nhà báo, tôn trọng và hiểu biết nghề nghiệp lẫn nhau, nâng cao trình độ của nhân viên QHCC, sự thiện chí của lãnh đạo doanh nghiệp và cơ quan báo chí…

Trong sự phát triển của ngành công nghiệp truyền thông tại Việt Nam thì rất cần một mẫu quan hệ truyền thông tích cực để làm thước đo và nền tảng cho những mối quan hệ đã, đang và sẽ được hình thành giữa nhân viên QHCC và nhà báo. Bởi, đây là mối quan hệ phổ biến và nó thực sự quan trọng trong việc phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội. Nó không chỉ được xuất phát từ nền văn hóa chung mà còn xuất phát từ nhu cầu cần thiết của xã hội. Thực tế nhiều doanh nghiệp mới thành lập dễ loay hoay và lúng túng


trong việc thiết lập và duy trì mối quan hệ với báo chí, đặc biệt là khi biến động kinh tế các khoản chi dành cho quan hệ báo chí bị cắt giảm.

Với quá trình tìm hiểu, khảo sát, phân tích và đưa ra các giải pháp cho mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo, luận văn mong muốn đóng góp cả về mặt lý luận và thực tiễn cho hoạt động xây dựng quan hệ báo chí của các doanh nghiệp, đồng thời cũng gợi mở cho các nhà báo thêm hiểu hơn về ngành QHCC, gợi mở những cách tiếp cận mới đối với giới QHCC để giúp cả hai bên đạt được sự thỏa mãn nghề nghiệp cao nhất… Cũng qua nghiên cứu này, luận văn giúp làm sáng tỏ một mẫu quan hệ truyền thông tích cực, mà ở đó, sợi dây tình cảm là mối liên lạc vô hình giữa người với người, giữa QHCC và báo chí mà các mối quan hệ như thế này ở phương Tây khó mà có được.

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ mở ra các hướng nghiên cứu tiếp theo về việc xây dựng và phát triển mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và các nhóm công chúng khác của tổ chức/cơ quan một cách phù hợp với nền văn hóa Việt Nam.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Tài liệu tiếng Việt


1. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

2. Al Ries, Laura Ries (2005), Quảng cáo thoái vị & PR lên ngôi, Nxb Trẻ - Thời báo Kinh Tế Sài Gòn – Trung tâm kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh.

3. Khoa Báo Chí (2010), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn tập 7, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

4. Nguyễn Dân (2005), Đồng dao Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

5. Vũ Cao Đàm (2011), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

6. Hà Minh Đức (chủ biên) (1997), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

7. TS. Đỗ Thị Thúy Hăng (2010), PR – công cụ phát triển báo chí, Nxb Trẻ, Hà Nội.

8. PGS. TS Đinh Thị Thúy Hằng (2007), PR kiến thức cơ bản và đạo đức nghề nghiệp, Nxb Lao Động Xã Hội, Hà Nội.

9. PGS. TS Đinh Thị Thúy Hằng (2010), Ngành PR tại Việt Nam, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.


10.PGS. TS Đinh Thị Thúy Hằng (2010), PR lý luận & ứng dụng, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

11. Đào Hữu Hồ (2007), Giáo trình thống kê xã hội học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12. Vũ Ngọc Phan (2003), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

13. Hoàng Xuân Phương, Nguyễn Thị Ngọc Châu (2012), Phong cách PR chuyên nghiệp, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

14. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.

15. Tạ Ngọc Tấn (2004), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Hà Nội.

16. Trần Ngọc Thêm (1995), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo Dục, TP. Hồ Chí Minh.

17. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam – cái nhìn hệ thống – loại hình, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

18. Viện Ngôn Ngữ Học (2009), Từ điển tiếng việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng.

19. Trần Quốc Vượng (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.


Tài liệu tiếng Anh


20. Alvin M. Chan (1987), The Chinese Concepts of Guanxi, Mianzi, Renqing and Bao: Their Interrelationships and Implications for International Business, Publisher Brisbane, Qld. Queensland University of Technology.

21. Bruning, S.D.,&Ledingham, J.A. (1999). Relationships between organizations and publics:Development of a multi-dimensional organization–public relationship scale, Public Relations Review, 25.

22. Cameron, G. T., Sallot, L. M.,&Curtin, P. A. (1997), Public relations and the production of news: Acritical reviewand theoretical framework, Communication Yearbook, 20, 111–155.

23. Dan Berkowitz (2004), Jonghyuk Lee, Media relation in Korea: Cheong between journalist and public relations practitioner.pg 431-437, Public Relations Review 30.

24. L.A.Grunig, J. E.Grunig,&D.M.Dozier (Eds.), Excellent public relations and effective organizations pg. 140–195). Mahwah, NJ: Lawrence Erlbaum Associates, Inc.

25. Grunig, J. E.,Grunig, L.A.,Huang,Y.-H., Lyra,A.,&Sriramesh (1995).Models of public relations in an international setting pg.163–186, Journal of Public Relations Research, 7.

26. Hunt, T.,&Grunig, J.E.(1994). Public relations techniques, pg.

417. Fort Worth, TX: Harcourt Brace.


27. Kroeber, A. L. and C. Kluckhohn (1952), Culture: A Critical Review of Concepts and Definitions, Vitage book, New York.

28. Nguyen Thi Thanh Huyen (2009), Co-orientation Study of Professional Relationship, Public Relations Practitioners' Roles, and News Values between Vietnamese Journalists and Public Relations Practitioners, Doctoral dissertation, Sogang University, Korea.

29. Lynne M.Sallot, Thomas M. Steinfatt, Michael B. Salwen (1998), Journalist’ and public relations practioners’ news values: perceptions and cross perceptions, pg 366-377, Journalism & Mass Communication Quarterly.

30. Lynne M. Sallot, Elizabeth A. Johnson, (1991-2004), Investigating relationships between journalists and public relations practitioners: Working together to set frame and build the public agenda, pg 151-159, Public Relations Review 32.

31. John A. Ledingham and Stephen D. Bruning (1998), Relationship managerment in public relations: Dimensions of an Organization public relationship, pg 55-65, Public Relations Review, 24.

32. Jongmin Park (2001), Images of “Hong Bo (Public relations)” and PR in Korean newspapers, pg403-420. Public Relations Review 27.

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 11/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí