ABSTRACT
The effect of IT risks on the quality of accounting information at enterprises in Vietnam
The application of IT in the implementation of AIS has helped organizations create competitive advantages, managed and used effectively resources (human, finance, and facilities). The more modern IT is, the more sophisticated and complicated. It makes those who use it always have to deal with the hidden risks that can appear at any time, which are the IT risks. This thesis used both qualitative and quantitative research methods. Documentary research and expert interviews were carried out at the qualitative research step to build a scale of research concepts and model. Data was collected from 368 objects who are accountants, auditors, financial managers, and corporate executives in Vietnam.
The analytical techniques EFA, CFA và SEM were used to analyze data at the quantitative research step with analyst units were enterprises. The results showed that IT risks: human resources, hardware, application of IT advancements, organizational culture, management commitment, and software và data have had a negative impact on the quality of AIS and herein, it also showed the positive influence of the quality of AIS on the quality of accounting information. Research results have added to the research gap in the literature about the quality of AIS in general and the quality of accounting information in particular. In addition, these results also help businesses in Vietnam realize what IT risks need to deal with to help improve the quality of AIS and increase the quality of accounting information.
Keywords: IT risks, the quality of AIS, the quality of accounting information.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Sự ra đời và phát triển không ngừng của công nghệ thông tin (CNTT), đặc biệt là công nghệ ứng dụng trong cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang mang lại nhiều cơ hội phát triển cho doanh nghiệp (DN). Bên cạnh những lợi thế mà công nghệ mang lại thì cũng kèm theo đó là những thách thức và rủi ro liên quan mà DN phải chấp nhận đối mặt. Bất kỳ DN nào thì cũng phải xây dựng cho mình một hệ thống thông tin kế toán (HTTTKT) phục vụ cho quản lý và ít nhiều nó bị chi phối bởi CNTT. Khi mà rủi ro CNTT xuất hiện, nếu chúng không được kiểm soát tốt thì HTTTKT của đơn vị sẽ bị đe doạ, CLHTTTKT bị giảm sút, từ đó dẫn đến chất lượng thông tin kế toán (CLTTKT) bị ảnh hưởng và nhà quản lý sẽ đưa ra những quyết sách sai lầm nếu sử dụng những thông tin kém chất lượng.
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh hưởng của rủi ro công nghệ thông tin đến chất lượng thông tin kế toán trong các doanh nghiệp tại Việt Nam - 1
- Ảnh hưởng của rủi ro công nghệ thông tin đến chất lượng thông tin kế toán trong các doanh nghiệp tại Việt Nam - 2
- Cơ Sở Lý Thuyết Và Xây Dựng Giả Thuyết, Mô Hình Nghiên Cứu:
- Các Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Rủi Ro Cntt Với Clhtttkt Và Clttkt
- Cơ Sở Lý Thuyết Và Xây Dựng Giả Thuyết, Mô Hình Nghiên Cứu
Xem toàn bộ 321 trang tài liệu này.
Những NC do diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) công bố trong báo cáo 2020 về các rủi ro hàng đầu ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu cho thấy rủi ro CNTT được xếp vào một trong 5 nhóm rủi ro cao bên cạnh các rủi ro về kinh tế, môi trường, địa chính trị và xã hội. Các rủi ro CNTT được nêu rõ trong báo cáo bao gồm hậu quả bất lợi của tiến bộ công nghệ, sự cố cơ sở hạ tầng và mạng thông tin, các cuộc tấn công mạng quy mô lớn và sự cố hàng loạt về gian lận hoặc đánh cắp dữ liệu. Từ kết quả này, diễn đàn kinh tế thế giới đã đưa ra nhận định và cảnh báo nếu chúng xảy ra, có thể tác động tiêu cực đáng kể cho một số quốc gia hoặc các lĩnh vực, ngành nghề trong vòng 10 năm tới (Báo cáo rủi ro toàn cầu của WEF, 2020).
Quản lý dữ liệu trên nền tảng điện toán đám mây đã và đang là xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế số. Đe doạ liên quan đến an toàn thông tin mạng sẽ khó tránh khỏi đối với hầu hết các tổ chức. Kết quả NC được tập đoàn công nghệ Bkav công bố trong báo cáo đánh giá an ninh mạng năm 2020 cho thấy thiệt hại do virus máy tính gây ra ở Việt Nam ở mức khá cao, trên 1 tỷ USD (khoảng 23,9 ngàn tỷ đồng). Các ngân hàng bị mất hàng trăm tỷ đồng do bị tấn công an ninh mạng; tấn công theo một cách thức mới có chủ đích đã nhắm đến nhiều tổ chức và DN … Dịch Covid-19 tràn lan vào năm 2020, đã khiến hàng loạt DN, cơ quan và tổ chức chuyển
sang làm việc trực tuyến. Các phần mềm làm việc online được sử dụng ngày một nhiều. Việc nhiều tổ chức phải chuyển hệ thống lên mạng để nhân viên có thể tiếp cận và làm việc trực tuyến đã tạo cơ hội cho bọn xấu lợi dụng, tấn công và trộm cắp thông tin (Báo cáo đánh giá an ninh mạng của Bkav, 2020).
Quan điểm hiện đại cho rằng: “Kế toán là ngôn ngữ của kinh doanh” và nhiệm vụ của kế toán là phải cung cấp cho nhà quản trị những thông tin có chất lượng và hữu ích để ra quyết định. Để làm được điều này đòi hỏi kế toán cần quan tâm nhiều hơn đến chất lượng của thông tin được tạo ra từ các ứng dụng CNTT hiện có, chẳng hạn phải nhận diện ra được những rủi ro và phân tích được mức độ ảnh hưởng của chúng đến chất lượng của thông tin. Để nhận diện và đánh giá được những rủi ro trong môi trường xử lý bằng tay đã khó thì nay để nhận diện và đánh giá chúng trong môi trường xử lý bằng máy tính lại càng khó hơn bởi những đặc thù vốn có của môi trường này. Cho nên đòi hỏi ban quản trị điều hành của DN phải có sự đầu tư đúng mức và coi vấn đề này là một trong những mục tiêu cần phải đạt được.
Theo Romney và Steinbart (2018), HTTTKT có nhiệm vụ xử lý dữ liệu nhằm giúp người dùng có đủ thông tin để đi đến quyết định đúng đắn. HTTTKT mà được xây dựng tốt sẽ tạo ra giá trị cho tổ chức bao gồm: (1) cải thiện chất lượng và chi phí dịch vụ/ sản phẩm sẽ được cắt giảm, (2) cải thiện hiệu quả, (3) chia sẻ tri thức, (4) cải thiện sự hữu hiệu và hiệu quả của chuỗi cung ứng, (5) cải thiện cấu trúc của KSNB và (6) cải thiện việc ra quyết định. Qua đây có thể thấy rằng muốn có được thông tin có chất lượng thì bản thân HTTTKT phải có chất lượng.
Các NC về rủi ro CNTT ảnh hưởng đến HTTTKT trong môi trường máy tính của Davis (1997), Korvin và cs (2004), Rajeshwaran N và Gunawardana K. D (2008), Wang và He (2011), Yang và Jiang (2014), Zhuang (2014), Fang và Shu (2016) và Susanto (2018), cho thấy đã phát hiện ra các rủi ro CNTT ảnh hưởng đến HTTTKT trong môi trường máy tính dựa vào dữ liệu thứ cấp và sử dụng kết quả của các NC trước đây, các sách chuyên khảo hoặc phỏng vấn các DN để xác định các rủi ro, từ đó các giải pháp được đưa ra hoặc thảo luận nhằm bảo vệ cho HTTTKT của các DN. Nhưng tất cả vẫn chưa cho thấy NC thực nghiệm nào đánh giá ảnh hưởng của các
nhân tố này. Do vậy, rất cần thiết những NC tiếp theo để bổ sung NC về kiểm định các ảnh hưởng rủi ro CNTT đối với CLHTTTKT.
Tiếp theo, những NC các nhân tố ảnh hưởng đối với CLHTTTKT (Wongsim, 2013; Carolina, 2014; Napitupulu, 2015; Wisna, 2015; Omar và cs, 2016; Meiryani và Susanto, 2018; Darma J. và cs, 2018; Nguyen và Nguyen, 2020) hay những NC các nhân tố ảnh hưởng đối với CLHTTTKT và hàm ý ảnh hưởng của nó lên CLTTKT (Al-Hiyari và cs, 2013; Rapina, 2014; Meiryani, 2014; Shien, 2015; Fitriati và Mulyani, 2015; Fitrios, 2016; Mkonya và cs, 2018) đã thành công khi xác lập các nhân tố tổ chức: cam kết/ hỗ trợ từ nhà quản lý, nguồn lực con người, cơ cấu tổ chức, cam kết từ tổ chức, và văn hoá tổ chức. Kết quả NC cũng cho thấy chúng có ảnh hưởng lên CLHTTTKT và CLTTKT tại DN. Tuy nhiên, các NC này chủ yếu đề cập các nhân tố tổ chức mà chưa thấy đề cập đến nhân tố CNTT dưới góc nhìn của rủi ro CNTT.
Ở trong nước, liên quan đến HTTTKT có các NC về chủ đề ERP: Xác định và kiểm soát các nhân tố ảnh hưởng đến CLTTKT trong môi trường ERP (Nguyễn Bích Liên, 2012); các nhân tố tác động đến thành công dự án ERP (Nguỵ Thị Hiền và Phạm Quốc Trung, 2013), … Số còn lại là các NC về HTTTKT nói chung như: nhân tố ảnh hưởng lên hiệu quả của HTTTKT trên nền máy tính (Phan Đức Dũng và Phạm Anh Tuấn, 2015); tác động của CNTT đến HTTTKT (Trịnh Viết Giang, 2017); nhân tố tác động đến sự thành công của HTTTKT (Nguyễn Phước Bảo Ấn, 2018), …
Từ các minh chứng trên cho thấy ở Việt Nam: (1) HTTTKT của các DN trong thời đại số ngày nay luôn bị đe doạ và thực tiễn cần quản trị rủi ro CNTT hiệu quả để CLTTKT được đảm bảo và (2) là sự thiếu hụt lý thuyết để giải quyết vấn đề thực tiễn. Những NC ở trên thế giới và tạiViệt Nam về CLHTTTKT và CLTTKT trong những năm qua cũng được một số nghiên cứu viên thực hiện. Tuy nhiên, xuất phát từ các khía cạnh, quan điểm khác nhau đã cho thấy những kết quả NC rất đa dạng và thú vị. Theo sự tìm hiểu của tác giả về các NC đã thực hiện, đặc biệt là ở Việt Nam thì chưa thấy có NC về ảnh hưởng của rủi ro CNTT đối với CLTTKT, nên theo tác
giả hướng NC này cũng là chủ đề có thể khám phá.
Từ thực trạng trên, “Ảnh hưởng của rủi ro công nghệ thông tin đến chất lượng thông tin kế toán trong các doanh nghiệp tại Việt Nam” được tác giả chọn lựa là chủ đề NC cho luận án này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát:
Mục tiêu tổng quát của đề tài là NC ảnh hưởng của rủi ro CNTT đối với CLTTKT trong các DN tại Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể:
Các mục tiêu cụ thể để hiện thực hoá mục tiêu tổng quát được xác định như sau:
- (1) Nhận diện các rủi ro CNTT ảnh hưởng đến HTTTKT;
- (2) Đo lường mức độ ảnh hưởng của các rủi ro CNTT đến CLHTTTKT và CLTTKT; và
- (3) Hàm ý quản lý của kết quả NC cho các bên liên quan.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu cho NC, những câu hỏi NC được xác định tương ứng bao gồm:
- Câu hỏi 1: Các rủi ro CNTT nào ảnh hưởng đến HTTTKT?
- Câu hỏi 2: Các rủi ro CNTT được nhận diện ảnh hưởng như thế nào đến CLHTTTKT và CLTTKT?
- Câu hỏi 3: Các hàm ý quản lý nào được đưa ra cho các bên có liên quan từ kết quả của NC?
4. Đối tượng nghiên cứu, đối tượng khảo sát và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng NC của luận án là các rủi ro CNTT ảnh hưởng đến CLTTKT trong các DN tại Việt Nam.
Đối tượng khảo sát
Để có thể đạt được những mục tiêu của NC, việc lựa chọn các đối tượng khảo sát sẽ là các kế toán viên, kiểm toán viên, nhà quản lý kế toán – tài chính và quản lý DN làm việc tại các DN ở Việt Nam, đang sử dụng HTTTKT trên thực tế.
Phạm vi nghiên cứu
- NC tìm hiểu mối quan hệ giữa các rủi ro CNTT với CLTTKT, được xem xét trong phạm vi môi trường nội bộ DN mà không xem xét đến môi trường bên ngoài như quy định pháp lý và công nghệ điện toán đám mây.
- Các doanh nghiệp được nghiên cứu trong đề tài là các DN ở Việt Nam, không phân biệt quy mô, loại hình, lĩnh vực và ngành nghề.
- Thời gian khảo sát từ tháng 02/2020 đến tháng 03/2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
PPNC được sử dụng trong NC này là phương pháp hỗn hợp. Trong đó, PPNC định tính giúp tác giả nhận diện ra các nhân tố rủi ro CNTT có ảnh hưởng đến CLHTTTKT, tìm hiểu các đặc điểm của các khái niệm NC, xây dựng thang đo các khái niệm và mô hình NC. Tiếp đến, phương pháp định lượng được triển khai nhằm kiểm định ảnh hưởng của rủi ro CNTT đến CLHTTTKT, đồng thời kiểm định ảnh hưởng của CLHTTTKT lên CLTTKT và từ đó có cơ sở để mang đến các hàm ý về quản lý cho các DN.
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu định tính
- Mục đích: xác lập các nhân tố rủi ro CNTT ảnh hưởng đến CLHTTTKT; xây dựng thang đo các nhân tố rủi ro CNTT, thang đo CLHTTTKT và thang đo CLTTKT.
- PPNC sử dụng: PPNC tài liệu và chuyên gia.
- Công cụ NC: thảo luận, phỏng vấn sâu qua điện thoại và email.
- Công cụ thu thập dữ liệu: dàn bài thảo luận (sử dụng câu hỏi mở kết hợp câu hỏi đóng).
- Đối tượng phỏng vấn: kế toán trưởng, kiểm toán độc lập (kiểm toán CNTT), quản lý IT, CFO, CEO và nhà NC tại các trường Đại học.
- Phương pháp chọn mẫu: phỏng vấn, thảo luận với đối tượng để thu thập dữ liệu cần thiết cho xây dựng lý thuyết; việc phỏng vấn, thảo luận từng đối
tượng cho đến khi tìm được điểm bão hòa, tức không thu thập được gì thêm sẽ dừng lại.
- Quy mô mẫu: tùy bối cảnh NC để xây dựng lý thuyết. Do chủ đề NC về mối quan hệ giữa rủi ro CNTT với CLHTTTKT phát sinh trong vận hành HTTTKT tại DN; đồng thời để cỡ mẫu lựa chọn mang tính đại diện và NC có hàm lượng khoa học cao nên những chuyên gia tham gia vào phỏng vấn được lựa chọn dựa vào các tiêu chí: (1) phải là những chuyên gia có chuyên môn và nhiều kinh nghiệm về quản lý DN, quản lý CNTT và kế toán, (2) phải là những chuyên gia có thâm niên làm việc nhiều năm liên quan đến các chuyên môn như đã đề cập ở trên, tối thiểu là 10 năm và (3) gắn liền với sự tham gia của các giảng viên hay NC viên đang làm công tác chuyên môn cùng lĩnh vực tại các trường Đại học.
Nghiên cứu định lượng
Giai đoạn 1: Nghiên cứu định lượng sơ bộ
Khi NC sơ bộ thì hai kỹ thuật dùng trong xử lý dữ liệu là kiểm định độ tin cậy thang đo bằng Cronbach’s Alpha và phân tích EFA để đánh giá giá trị hội tụ và phân biệt của thang đo. Kết quả của bước này cho ra thang đo cuối cùng và có chất lượng hơn để phục vụ NC định lượng chính thức.
Giai đoạn 2: Nghiên cứu định lượng chính thức
- Mục đích: đo lường CLHTTTKT, CLTTKT và các nhân tố tác động đến chúng; kiểm định và lượng hóa mối quan hệ giữa các nhân tố trong mô hình. Kiểm tra sự khác biệt trong đánh giá về mức độ ảnh hưởng của các nhân tố rủi ro CNTT đến CLHTTTKT giữa các nhóm đối tượng được khảo sát.
- PPNC: khảo sát.
- Công cụ NC: gởi email.
- Công cụ thu nhận dữ liệu: bảng hỏi chi tiết.
- Đối tượng phân tích: các DN.
- Đối tượng khảo sát: kế toán viên, kiểm toán viên, nhà quản lý kế toán – tài chính và quản lý DN.
- Phân tích dữ liệu thu thập: kiểm định độ tin cậy của thang đo bằng Cronbach’s Alpha; kiểm định giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của thang đo bằng phân tích EFA; phân tích CFA; kiểm định các giả thuyết NC và lượng hóa tác động của các nhân tố trong mô hình bằng kỹ thuật phân tích mô hình cấu trúc SEM.
5.2. Dữ liệu thu thập và công cụ phân tích dữ liệu
Dữ liệu thu thập được sử dụng là dữ liệu thứ cấp ở bước NC định tính và dữ liệu sơ cấp ở bước NC định lượng.
Phần mềm dùng trong NC là SPSS phiên bản 20.0 và AMOS 20 và 24.
6. Ý nghĩa của nghiên cứu
Kỳ vọng của NC này là nếu đạt được các mục tiêu NC sẽ đem lại những đóng góp tích cực về cả hai mặt khoa học và thực tiễn. Cụ thể:
Ý nghĩa khoa học
Đề tài đã khám phá các khái niệm và lý thuyết chưa được NC và kiểm định về CLTTKT trong các DN ở Việt Nam. Cụ thể, NC đã kiểm định các lý thuyết đề cập đến mối quan hệ giữa CLTTKT với các rủi ro CNTT như rủi ro phần cứng, rủi ro phần mềm, rủi ro dữ liệu, rủi ro ứng dụng tiến bộ CNTT, rủi ro nguồn lực con người, rủi ro cam kết quản lý và rủi ro văn hoá tổ chức. Qua đó, bổ sung vào các lý thuyết liên quan đã thực hiện trên thế giới.
Đề tài bổ sung thêm vào bằng chứng cho thấy các thang đo các nhân tố, thang đo CLHTTTKT và CLTTKT được sử dụng trong các NC trước tiếp tục được sử dụng trong luận án là phù hợp.
Dưới góc nhìn rủi ro CNTT, đề tài đã đưa thêm bằng chứng cho thấy có sự xuất hiện của nhân tố mới là nhân tố rủi ro phần mềm và dữ liệu đã được hình thành từ việc hội tụ của hai nhân tố rủi ro phần mềm và rủi ro dữ liệu, khác với mô hình NC lúc đầu sau khi triển khai NC định lượng.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả NC định hướng cho lãnh đạo DN đưa ra hoạch định chính sách quản trị, kiểm soát rủi ro CNTT sao cho hữu hiệu và hiệu quả để tăng cường CLHTTTKT và CLTTKT trong DN.