kết của tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn được phản ánh trong cơ cấu tổ chức. Các nhân tố này không chỉ trở nên cấp thiết khi HTTT được tạo ra và phát triển, mà còn cần được xem xét khi HTTT được triển khai. Napitupulu (2015) nhấn mạnh văn hóa là một nhân tố tích cực trong việc lan truyền HTTTKT quản lý trong các đơn vị. HTTTKT quản lý nói chung là một HTTT, HTTTKT quản lý được xây dựng để phục vụ các yêu cầu từ tổ chức và được hình thành dựa trên cơ cấu tổ chức, quy trình kinh doanh, mục tiêu của tổ chức, văn hóa tổ chức, chính trị và quản lý.
Với các tổ chức, HTTTKT là hệ thống quan trọng nhằm tạo ra thông tin tài chính hữu ích và đáng tin cậy để cho phép người sử dụng đưa ra các quyết định kinh doanh sáng suốt. Do đó, chất lượng của HTTTKT phải được nâng cao thông qua việc tăng cường cam kết đối với các nhân tố cơ cấu tổ chức, văn hóa tổ chức và hệ thống KSNB (Omar và cs, 2016). Thêm vào đó, hỗ trợ của quản lý cấp cao cũng có ảnh hưởng đáng kể và giữ vai trò đặc biệt trong đánh giá chất lượng của HTTTKT tài chính (Darma J. và cs, 2018). Meiryani và Susanto (2018) bổ sung thêm CLHTTTKT bị ảnh hưởng từ việc sử dụng CNTT. CLHTTTKT sẽ bị giảm sút khi CNTT chưa được sử dụng đầy đủ, chưa phát huy hết chức năng, cơ sở hạ tầng CNTT sẵn có chưa hoàn toàn tin cậy và đội ngũ hỗ trợ CNTT chưa phát huy hết tác dụng.
Tại Việt Nam, Nguyen và Nguyen (2020) củng cố thêm cho chủ đề NC về CLHTTTKT bằng khẳng định: (1) văn hóa tổ chức, (2) tham dự của lãnh đạo, (3) CNTT, (4) kiến thức về CNTT của ban quản trị, (5) kiến thức kế toán của ban quản trị, (6) các ứng dụng TTKT, (7) tư vấn từ các chuyên gia bên ngoài và (8) các hoạt động huấn luyện cho người dùng HTTTKT là có ảnh hưởng lên CLHTTTKT đáng kể. Trong đó, kiến thức về CNTT của ban quản trị, CNTT, tham dự của lãnh đạo, kiến thức về kế toán của ban quản trị là mạnh mẽ nhất.
Nhìn lại các NC ở trên, điểm chung của chúng là đều xem xét đến các nhân tố tổ chức như cam kết của nhà quản lý, nguồn lực con người, cam kết tổ chức, văn hoá tổ chức, cơ cấu tổ chức, sự tham dự của nhà quản lý, kiến thức của nhà quản lý về kế toán, kiến thức CNTT của nhà quản lý, huấn luyện sử dụng, năng lực người dùng, sự hỗ trợ của nhà quản lý, nhận thức về khả năng sử dụng và tính hữu ích liên quan đến
CLHTTTKT. Bằng kiểm định, các NC này đã chứng minh rằng các nhân tố trên có tác động đáng kể lên CLHTTTKT. Một số ít NC có nhắc đến tác động của CNTT (Wongsim, 2013; Phan Đức Dũng và Phạm Anh Tuấn, 2015; Meiryani và Susanto, 2018; Nguyen và Nguyen, 2020) đối với CLHTTTKT thể hiện qua một số nhân tố như phần cứng, phần mềm và hệ thống mạng.
Mặc dù các NC đặt trọng tâm vào việc xem xét tác động của các nhân tố kể trên đối với HTTTKT hay CLHTTTKT, nhưng chưa cho thấy NC ảnh hưởng từ HTTTKT hay CLHTTTKT đến CLTTKT. Chính vì thế, cũng cần có thêm những NC ảnh hưởng của HTTTKT hay CLHTTTKT đối với CLTTKT, đặc biệt là NC dưới góc nhìn của rủi ro CNTT khi mà HTTTKT và CLTTKT ngày càng bị chi phối nhiều bởi CNTT trong thế giới số ngày nay.
Tổng hợp nghiên cứu liên quan đến HTTTKT và CLHTTTKT (Phụ lục 2)
1.1.3. Các nghiên cứu liên quan đến CLTTKT
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh hưởng của rủi ro công nghệ thông tin đến chất lượng thông tin kế toán trong các doanh nghiệp tại Việt Nam - 2
- Đối Tượng Nghiên Cứu, Đối Tượng Khảo Sát Và Phạm Vi Nghiên Cứu
- Cơ Sở Lý Thuyết Và Xây Dựng Giả Thuyết, Mô Hình Nghiên Cứu:
- Cơ Sở Lý Thuyết Và Xây Dựng Giả Thuyết, Mô Hình Nghiên Cứu
- Chất Lượng Hệ Thống Thông Tin Kế Toán
- Mô Hình Httt Thành Công D&m (Cập Nhật 2016)
Xem toàn bộ 321 trang tài liệu này.
Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến CLTTKT được biết đến trong công trình của Al-Hiyari và cs (2013) cho thấy có mối tương quan chặt chẽ giữa cam kết quản lý, chất lượng dữ liệu và việc triển khai HTTTKT. Mặc dù mối quan hệ này không liên quan chặt chẽ đến nguồn nhân lực, nhưng NC cũng phát hiện ra mối quan hệ quan trọng giữa nguồn nhân lực, HTTTKT và CLTTKT. Rapina (2014) bổ sung cam kết quản lý, văn hóa tổ chức và cơ cấu tổ chức ảnh hưởng một phần và đồng thời đến CLHTTTKT và CLTTKT. CLHTTTKT có thể được nâng lên từ việc tăng cường cam kết ngày càng tốt hơn đối với việc quản lý, cơ cấu tổ chức và văn hóa tổ chức. Đồng quan điểm, Meiryani (2014) khẳng định việc hỗ trợ của lãnh đạo cấp cao giúp nâng cao CLHTTTKT và tác động tích cực đến CLTTKT, qua đó chất lượng của việc ra quyết định cũng được nâng cao. Ngoài hỗ trợ của lãnh đạo cấp cao, Shien (2015) còn cho rằng khả năng của người sử dụng có ảnh hưởng hiệu quả đến CLHTTTKT và tác động đến CLTTKT của DN. HTTTKT chất lượng có thể hỗ trợ ban giám đốc thực thi trách nhiệm và các chức năng của việc lên kế hoạch, chỉ thị, ra quyết định và giám sát nhằm hướng đến các mục tiêu của DN và gian lận tài chính sẽ giảm thiểu.
Trong một NC khác, Fitriati và Mulyani (2015) cho rằng với cam kết tổ chức ở mức cao, nhân viên sẽ có niềm tin vào mục tiêu của đơn vị để họ có nhận thức tích cực về triển khai hệ thống. Khi nhân viên có nhận thức cao về sự hữu ích và tính dễ sử dụng của HTTTKT, họ sẽ có động lực sử dụng hệ thống để cải thiện hiệu quả làm việc đáp ứng các mục tiêu của tổ chức. Ngoài ra, văn hoá tổ chức mạnh mẽ cũng sẽ hỗ trợ triển khai thành công HTTTKT và sự thành công của HTTTKT cũng sẽ tăng cường đặc điểm CLTTKT là tính liên quan, sự chính xác, kịp thời và đầy đủ.
Bằng việc cải thiện huấn luyện người sử dụng và cam kết đến từ nhà quản trị cấp cao sẽ giúp tăng cường CLTTKT (Fitrios, 2016). Hỗ trợ đến từ nhà quản trị cấp cao và nhân tố cá nhân sẽ giúp tăng cường CLHTTTKT, từ đó cũng gia tăng được CLTTKT (Mkonya và cs, 2018).
Các NC trên đã nhận diện ra các nhân tố tổ chức như cam kết/ hỗ trợ của nhà quản lý, nguồn lực con người, cam kết tổ chức, cơ cấu tổ chức và văn hoá tổ chức có tác động đáng kể lên CLTTKT. Đối tượng phân tích trong các NC chỉ ra ở đây rất đa dạng từ cá nhân là người học, nhân viên kế toán cho đến các DN kinh doanh, tổ chức giáo dục và tổ chức phi chính phủ.
Mặc dù PPNC định tính và định lượng đã được triển khai đầy đủ trong các NC này nhưng các nhà NC chỉ xem xét đến các nhân tố tổ chức mà chưa thấy đề cập đến các nhân tố CNTT như phần cứng, phần mềm và ứng dụng tiến bộ CNTT. Từ thực tế này cho thấy cần có những NC thêm về ảnh hưởng của các nhân tố CNTT, đặc biệt là rủi ro CNTT đến CLTTKT.
Tổng kết nghiên cứu liên quan đến CLTTKT (Phụ lục 3)
1.1.4. Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa rủi ro CNTT với CLHTTTKT và CLTTKT
Sự thay đổi nhanh chóng của CNTT, sự bùng nổ của các hệ thống thân thiện với người dùng và mong muốn của các tổ chức là có và triển khai được các bản cập nhật của hệ thống kế toán vi tính hoá và phần mềm đã làm cho máy tính được sử dụng dễ dàng hơn, cho phép hoàn thành các nhiệm vụ kế toán nhanh hơn và chính xác hơn. Mặt khác, công nghệ tiên tiến cũng đã tạo ra những rủi ro đáng quan tâm liên quan
đến việc đảm bảo tính bảo mật và tính toàn vẹn của HTTTKT trên nền máy tính. Vì sự tin cậy của thông tin và những thay đổi liên tục trong công nghệ buộc các tổ chức phải thực hiện kiểm soát an ninh để bảo vệ HTTTKT trên nền máy tính của họ trước sự tiềm ẩn của những mối hiểm hoạ an ninh. Tuy nhiên, việc không bảo đảm an toàn HTTTKT trên nền máy tính và thông tin do hệ thống tạo ra hoặc khó tiếp cận được khi cần thiết có thể đưa đến những thiệt hại lớn về tài chính và phi tài chính (Gunawardana, 2017 trích dẫn theo Abu-Musa, 2007; Abu-Musa, 2009).
Hanini (2012) kết luận rằng có những rủi ro thách thức cho sự an toàn của HTTTKT trong các ngân hàng Jordan; liên hệ đến việc nhân viên cố tình nhập dữ liệu xấu, rủi ro liên hệ đến sự xâm nhập của vi rút vào hệ thống, rủi ro về KSNB như người không được phép lại xem được kết quả và rủi ro về các thảm họa tự nhiên và bất thường do con người thực hiện. Một trong những điều quan trọng nhất dẫn đến những rủi ro này là do nhân viên của ngân hàng thiếu kinh nghiệm trong việc giữ an toàn thông tin, vốn được biết đến là do thiếu đào tạo nhân viên về cách dùng các phương tiện bảo vệ hệ thống kế toán trước khi bắt đầu công việc của họ và việc thiếu một hệ thống tuyển dụng phù hợp để bổ nhiệm đúng người vào vị trí thích hợp.
Việc sử dụng ngày càng nhiều ngân hàng điện tử, HTTTKT điện tử dẫn đến việc đòi hỏi những trách nhiệm mới để tránh các rủi ro bắt nguồn từ việc sử dụng những hệ thống này, vốn có những lỗi có thể xuất hiện trong hoạt động xử lý và dĩ nhiên có thể tác động đến chất lượng BCTC, dẫn đến gây xâm hại trầm trọng lợi ích của ngân hàng và lợi ích người dùng các báo cáo đó trong các quyết định tài chính được đưa ra từ họ (AL-Amro, Alnawaiseh, Bader, và Alnawaiseh, 2017). Trong NC về tác động của các rủi ro HTTTKT điện tử lên chất lượng BCTC ở ngân hàng thương mại Jordan, các tác giả đã chỉ ra sự hiện diện của rủi ro nhập dữ liệu, rủi ro quản lý dữ liệu, rủi ro đầu ra của dữ liệu, rủi ro môi trường bên ngoài và bên trong là các nhân tố tác động đến chất lượng BCTC.
Việc quá phụ thuộc vào CNTT trong việc thực hiện các hoạt động ngân hàng ở những thập kỷ qua đã được công nhận rõ ràng. Việc sử dụng HTTT trong việc thực thi các nhiệm vụ kế toán đã được ghi nhận với nhiều lời khen ngợi, tuy nhiên các mối
đe dọa đối với hệ thống là điều không thể tránh khỏi với hầu hết DN trong sự biến đổi không ngừng của môi trường kinh doanh. NC của Bansah (2018) có những điểm giống với Hanini (2012) cho thấy rằng các nguồn đe dọa đáng lo ngại nhất đối với HTTTKT trên nền máy tính bao gồm mất điện, rủi ro do nhân viên gây ra, vi rút và các mối đe dọa từ bên ngoài. Liên quan đến nguyên nhân của các rủi ro đối với HTTTKT trên nền máy tính, các phát hiện chỉ ra rằng việc vô tình nhập dữ liệu xấu, sao chép trái phép đầu ra của hệ thống, thiếu sao lưu thường xuyên, cập nhật không thường xuyên phần mềm bảo vệ hệ thống, truy cập trái phép dữ liệu bởi nhân viên, yếu kém trong KSNB và thiếu các chính sách bằng văn bản là những lý do đưa đến các mối đe dọa đối với HTTTKT trên nền máy tính.
Một kết quả NC khác từ Al Haija (2021) thì cho rằng hầu hết các rủi ro là kết quả của các nguyên nhân bên trong chứ không phải nguyên nhân bên ngoài và chúng phát sinh do các sai sót hoặc sơ suất ngoài ý muốn. HTTTKT trên nền máy tính có nhiều rủi ro đe dọa đến sự an toàn của nó và các rủi ro này ảnh hưởng đến CLTTKT.
Tóm lại, HTTTKT là một hệ thống dựa trên công nghệ cho phép các tổ chức thu thập, lưu trữ và xử lý dữ liệu kế toán (phi tài chính và tài chính) và chuyển đổi nó thành thông tin hỗ trợ cho người ra quyết định (Bodnar và Hopwood, 2013). HTTTKT là một tập hợp các hoạt động, tài liệu và công nghệ có liên quan với nhau được thiết kế để thu nhận, xử lý dữ liệu và chuyển thông tin đếnnhiều nhóm người ra quyết định trong nội bộ và bên ngoài tổ chức. Sự phát triển của CNTT là một động lực tích cực trong kinh doanh; nhưng cũng như tất cả các đổi mới khác, nó cũng có mặt trái là rủi ro đi kèm (Hurt, 2010).
Tổng kết nghiên cứu về mối quan hệ giữa rủi ro CNTT với CLHTTTKT và CLTTKT (Phụ lục 4)
1.2. Nhận xét chung về các nghiên cứu
Điểm qua các NC trước theo phạm vi tìm hiểu được, tác giả đề tài có những nhận xét như sau:
Các NC về rủi ro CNTT và an toàn thông tin chỉ ra các rủi ro ảnh hưởng đến HTTT nói chung và HTTTKT nói riêng có liên quan đến phần mềm, phần cứng, dữ
liệu, ứng dụng tiến bộ CNTT và con người. Bằng PPNC định tính với việc giao tiếp các chuyên gia về IT, các nhân viên kế toán đang làm việc tại các công ty và NC định lượng ở bước thống kê mô tả, các tác giả đã xác định được các rủi ro mà HTTTKT gặp phải trong môi trường tin học hoá. Như vậy, ở các NC này chưa cho thấy thêm bước NC định lượng là xem xét mức độ tác động của các rủi ro này đối với HTTTKT hay CLHTTTKT.
Các NC liên quan đến HTTTKT và CLHTTTKT thì cho thấy các nhà NC đã tiếp cận dựa trên góc nhìn của tổ chức để nhận diện và đo lường các nhân tố tác động đến HTTTKT hay CLHTTTKT. Các nhân tố tổ chức ở đây bao gồm: cam kết của nhà quản lý, nguồn lực con người, văn hoá tổ chức, cơ cấu tổ chức và cam kết tổ chức. Những NC này đã chứng minh được chiều tác động cũng như mức ảnh hưởng của các nhân tố, nhưng vẫn chưa có NC về ảnh hưởng của HTTTKT hay CLHTTTKT đến kết quả đầu ra của nó là CLTTKT.
Trong khi đó, những NC có mối liên hệ đến CLTTKT thì đã làm rõ thêm mối liên hệ và chiều tác động giữa HTTTKT hay CLHTTTKT đối với CLTTKT. Theo hướng NC này, góc nhìn của tổ chức vẫn được các nhà NC vận dụng để chỉ ra các nhân tố tác động đến CLHTTTKT là các nhân tố tổ chức.
Những NC về mối liên hệ giữa rủi ro CNTT với CLHTTTKT và CLTTKT thì đã xác định mối liên hệ mật thiết giữa HTTTKT và CNTT, CNTT một mặt vừa mang lại những lợi ích thì mặt khác cũng đem đến những rủi ro cho các thành phần của HTTTKT (phần cứng, phần mềm, dữ liệu, con người và KSNB), từ đó ảnh hưởng đến CLHTTTKT và CLTTKT.
Qua tổng kết các NC cho thấy vẫn chưa có NC các nhân tố ảnh hưởng đến CLTTKT tiếp cận dưới góc nhìn rủi ro CNTT gắn liền với cả hai nhóm nhân tố tổ chức và nhân tố CNTT. Mặc dù vậy, các kết quả rút ra là cơ sở để tác giả kế thừa đưa vào NC trong luận án khi xem xét ở môi trường của một đất nước đang phát triển như Việt Nam.
1.3. Khoảng trống nghiên cứu và định hướng nghiên cứu của luận án
1.3.1. Xác định khoảng trống nghiên cứu
Theo phạm vi khảo cứu của bản thân về những NC trước đã cho thấy chủ đề NC về ảnh hưởng của rủi ro CNTT đến CLTTKT chưa được NC là khoảng trống NC mà luận án này thực hiện. Sự cần thiết và quan trọng của NC này đến từ các khía cạnh:
Các NC về các nhân tố ảnh hưởng đến CLHTTTKT và CLTTKT đã được thực hiện ở các nước như Jordan, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc, Sri Lanka, Ghana, Lybia, … nhưng chưa được thực hiện nhiều ở Việt Nam. Ngoại trừ Trung Quốc, các quốc gia còn lại đều là những nước đang phát triển và có nhiều đặc điểm tương đồng như Việt Nam. Tuy nhiên, ở chừng mực nào đó vẫn chỉ ra sự khác biệt giữa những nước này và Việt Nam, thể hiện qua quy định pháp luật, thể chế chính trị, loại hình DN hay tư duy quản lý. Chính vì thế, việc triển khai NC về chủ đề này sẽ đem đến thêm bằng chứng cho thấy kết quả NC ở Việt Nam giống hay khác gì so với các NC trước.
Các NC về các nhân tố ảnh hưởng đến CLHTTTKT và CLTTKT vẫn chưa cho thấy có NC có đầy đủ các nhân tố tổ chức và nhân tố CNTT. Đặc biệt là NC ảnh hưởng của các nhân tố này đến CLHTTTKT và CLTTKT dưới góc nhìn của rủi ro CNTT. Do đó, khi thực hiện NC này ở Việt Nam sẽ có cơ hội kiểm chứng và khẳng định các lý thuyết có liên quan thêm một lần nữa.
NC ảnh hưởng của rủi ro CNTT đến CLTTKT trong luận án này có sự kế thừa các nhân tố và thang đo của các NC trước, nhưng có sự điều chỉnh lại cho phù hợp với góc nhìn của rủi ro CNTT. Bên cạnh đó, kết quả NC cũng đem lại bổ sung cho phát triển và xây dựng thang đo cho những NC tương tự trong tương lai.
Cuối cùng, NC này khi thực hiện sẽ giúp các DN và các bên liên quan hiểu rõ hơn về các rủi ro CNTT ảnh hưởng đến CLTTKT, theo đó chính sách quản lý được đề xuất cho các DN và các bên liên quan sao cho có thể kiểm soát các rủi ro CNTT một cách tốt nhất, đồng thời giúp tăng cường CLTTKT.
1.3.2. Định hướng nghiên cứu của luận án
Từ việc kế thừa và kết hợp thành quả của những NC trước, luận án đã thực hiện NC ảnh hưởng của rủi ro CNTT đến CLTTKT. Trong đó, luận án đã tập trung xây dựng mô hình NC, kiểm định các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến CLHTTTKT và ảnh hưởng của CLHTTTKT lên CLTTKT trong các DN tại Việt Nam.
Các nhân tố được kế tục từ các NC trước như cam kết của nhà quản lý, nguồn lực con người, văn hóa tổ chức, phần cứng, phần mềm, dữ liệu và ứng dụng tiến bộ CNTT đã được chọn lựa vào mô hình trong mối liên hệ với CLHTTTKT và CLTTKT. Tiếp theo, mô hình NC đã được chỉnh lại cho thích hợp với hoàn cảnh NC dưới góc nhìn rủi ro CNTT và bước cuối là thực hiện kiểm định và phân tích định lượng trên thực tế để đánh giá mức độ ảnh hưởng của rủi ro CNTT đối với CLHTTTKT và CLTTKT. NC này sử dụng thành quả của các NC trước làm nền tảng, có điều chỉnh lại cho thích hợp với bối cảnh NC. Sự kế thừa các nhân tố là có chọn lọc cho phù hợp với tình hình NC của luận án và tránh sự trùng lắp thang đo giữa các nhân tố. Các nhân tố NC trong mô hình phần lớn thuộc phạm vi môi trường bên trong của tổ chức, không xem xét đến phạm vi môi trường bên ngoài như quy định của pháp luật hay công nghệ điện toán đám mây. Những nhân tố có thể có ảnh hưởng chưa đưa vào NC được xem như hạn chế của luận án và sẽ là định hướng cho NC tiếp tục trong tương lai. Chi tiết
các khái niệm NC và thang đo tương ứng sẽ được đề cập cụ thể trong chương 3.