Tốc Độ Đth Và Các Dự Án Đã Được Đầu Tư Vào Huyện


Qua điều tra nghiên cứu chúng tôi nhận thấy: ĐTH là quá trình phát triển lâu dài. Ở giai đoạn đầu thường chậm và yếu nhưng sẽ nhanh và mạnh trong giai đoạn sau. Do đó, căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương mà chúng tôi đã chọn năm 2005 làm mốc đánh dấu sự thay đổi nhanh - chậm của quá trình ĐTH tại huyện Phổ Yên.

Mô tả về không gian:


ĐTH là quá trình hình thành các khu công nghiệp và khu đô thị từ việc thu hồi diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn. Ở Phổ Yên, ĐTH tập trung nhiều ở các xã phía Tây, phía Nam và trung tâm của huyện. Đây chính là lý do để chúng tôi chọn nghiên cứu các hộ nông dân ở 3 địa điểm đại diện đó là: xã Đắc Sơn ở phía Tây, xã Trung Thành ở phía Nam và thị trấn Ba Hàng ở trung tâm huyện.

2.2.1.2. Tốc độ ĐTH và các dự án đã được đầu tư vào huyện

Tốc độ ĐTH của huyện Phổ Yên

Quá trình ĐTH được đánh giá thông qua rất nhiều các chỉ tiêu khác nhau nhưng trên cơ sở các chỉ tiêu đã được giới thiệu trong chương 1 chúng tôi xin đưa ra kết quả như sau:

Bảng 2.9: Tốc độ ĐTH của huyện Phổ Yên

Thời gian

Tốc độ ĐTH (%)

2006

9,6

2007

11,2

2008

15,7

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.

Ảnh hưởng của đô thị hoá đến phát triển kinh tế xã hội của huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên - 9

Nguồn: Số liệu được tính toán từ phòng Thống kê huyện Phổ Yên

Bảng 2.9 cho thấy tốc độ ĐTH của huyện trong những năm gần đây có sự gia tăng đáng kể. Là một huyện với phần lớn dân số tập trung sản xuất nông nghiệp nên trong thời kỳ trước ĐTH thì tốc độ ĐTH chỉ đạt 6,2% nhưng


chỉ tiêu này đã có sự thay đổi đáng kể trong vài năm trở lại đây. Cụ thể: năm 2006 tốc độ ĐTH chỉ đạt 9,6% thì đến 2008 đã là 15,7%. Để có sự thay đổi đáng kể đó phải kể đến những chính sách thiết thực trong việc kêu gọi và thu hút đầu tư của Huyện. Chính nó đem lại số lượng các dự án ngày càng lớn cả về quy mô lẫn giá trị cho huyện.

Thực trạng các dự án đã được cấp phép đầu tư vào huyện

Như trên đã nói, thu hút đầu tư là một trong số các biện pháp được đặt lên hàng đầu trong phương hướng phát triển kinh tế của huyện Phổ Yên. Vì chỉ có thu hút đầu tư - tức là xây dựng các khu dân cư, khu đô thị và khu CN thì mới có điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang hướng tập trung nhiều vào CNXD và DV. Để nghiên cứu vấn đề này ta xem bảng 2.10, cụ thể như sau:

Năm

Số lượng DA

Diện tích đầu tư (ha)

Quy mô vốn đầu tư (tỷ đồng)

2006

1

9,45

30

2007

5

175,77

734

2008

17

1083,8

15815

Bảng 2.10: Thực trạng các DA đầu tư đã được cấp giấy phép trên địa bàn huyện Phổ Yên


Nguồn: Phòng Tài chính và kế hoạch huyện Phổ Yên, 2009

Giá trị (tỷ đồng)

Biểu 2.4: Biến động về giá trị DA được cấp phép đầu tư, 2006 - 2008



20000





15000



15815

10000




5000





0

30

734



2006

2007

2008



Năm



Quy mô vốn đầu tư


Như vậy số lượng dự án từ 2006 đến 2008 đã có sự thay đổi đáng kể. Nếu như năm 2006 chỉ có duy nhất 1 dự án được cấp phép đầu từ vào huyện thì con số đó đã thay đổi thành 5 trong 2007 và lên tới 17 năm 2008. Cùng với sự tăng lên về mặt số lượng thì diện tích và quy mô vốn đầu tư cho dự án cũng tăng lên nhanh chóng. Cụ thể năm 2006 quy mô của 1 dự án chỉ là 30 tỷ đồng thì đến năm 2008 tổng số tiền đầu tư cho 17 dự án đã lên tới 15825 tỷ đồng. Một con số đáng khâm phục cho tình hình thu hút đầu tư của 1 huyện như huyện Phổ Yên.

2.2.1.3. Ảnh hưởng của đô thị hoá đến phát triển KT-XH của huyện Phổ Yên


Ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế


Với mốc thời gian đánh giá sự thay đổi lớn hay nhỏ của ĐTH là năm 2005, giúp ta nhận thấy tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế của huyện.

Biểu 2.5: Sự thay đổi về giá trị SX của huyện giai đoạn 2000 - 2008

GTSX

1800000

1600000

1400000

L2

1200000

1000000

800000

600000

400000

200000

0

L1

2001 2002 2003 2004 2005

2006 2007 2008

Năm

Gía trị

ĐVT: triệu đồng


Qua biểu 2.5 cho thấy giá trị SX có sự biến động tăng dần từ 2000 đến 2008. Tuy nhiên với biểu đồ trên thì sự biến động ở giai đoạn 2000 - 2005 chậm hơn hơn giai đoạn 2005- 2008. Điều này được thể hiện qua 2 đường thẳng L1 và L2, đường L2 có độ dốc lớn hơn L1. Như trên đã phân tích, quá trình ĐTH của huyện diễn ra mạnh trong những năm gần đây và do đó chính nó góp phần tạo nên sự gia tăng đáng kể về giá trị SX. Hay có thể nói, tốc độ ĐTH tỷ lệ thuận với tốc độ tăng giá trị SX.

Ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế


120

100

80

60

40

20

0

Biểu 2.6: Biến động cơ cấu kinh tế của huyện

Phổ Yên

52.3

48.96

45.83

40.24

33.83

30.99

29.03

26.25

33.83

36.11

38.81

43.88

50.46

54.78

56.14 57.73

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 200

Năm

8

3. Nông nghiệp

2. DV

1. CN và XD

Cơ cấu (%)

Cơ cấu kinh tế của huyện đã và đang có sự chuyển dịch theo hướng hợp lý, phù hợp với xu thế chung của các quốc gia phát triển. Đó là tăng giá trị ngành công nghiệp & TTCN và dịch vụ, từng bước giảm dần giá trị của ngành nông nghiệp. Sau đây là biểu đồ mô tả biến động cơ cấu kinh tế của huyện trong giai đoạn 2001 - 2008:


Trong cơ cấu kinh tế của huyện đã có sự thay đổi rất lớn, sự thay đổi này tập trung chủ yếu vào 2 ngành là nông nghiệp và công nghiệp & XD. Nhìn vào đồ thị ta thấy các đường thẳng cơ cấu ngành nông nghiệp và ngành CN & XD gần như song song với nhau. Nếu như trong giai đoạn đầu (2001 - 2005) giá trị ngành nông nghiệp giảm đi thì ở giai đoạn sau (2005 - 2008) lại tăng lên. Nhưng sự biến động này lại hoàn toàn ngược chiều với giá trị ngành công nghiệp & TTCN. Điều này cho thấy ở góc độ nào đó thì ĐTH đã góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện theo đúng hướng.

Ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR)


Kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để tăng trưởng nhanh là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do hạn chế về đất đai và khả năng sinh học nên đạt được tốc độ cao là rất khó. Như vậy, chính đầu tư đã quyết định tới tăng trưởng kinh tế. Để thấy được sự tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế chúng ta thường sử dụng hệ số ICOR.


ICOR

I

GDP

trong đó: I: Vốn đầu tư


∆GDP: Mức tăng GDP

Ở Phổ Yên hệ số ICOR những năm gần đây thường dao động trong khoảng từ 2,8 đến 3,3. Con số này hoàn toàn phù hợp với thực tế tại huyện hiện nay. Đó là thiếu vốn, thừa lao động có trình độ thấp và cần phải sử dụng LĐ để thay thế cho vốn do sử dụng công nghệ kém hiện đại và giá rẻ.

Ảnh hưởng của đô thị hoá đến dân số, lao động và việc làm


Nguồn lao động của huyện nhìn chung là dồi dào. Tuy nhiên nhu cầu về công việc hiện tại là khá căng thẳng. Đặc biệt là số lao động trong các hộ nông thôn bị mất đất cho các dự án xây dựng khu công nghiệp. Mặc dù một số hộ trong số đó đã nhanh chóng có sự chuyển đổi sản xuất đáp ứng được nhu cầu công việc cho lao động hộ mình. Số còn lại hoặc do chưa kịp chuyển đổi sản xuất hoặc do không đủ điều kiện chuyển đổi sản xuất và đặc biệt là một số hộ đang có sự cam kết về sử dụng lao động cho các khu công nghiêp, nhà máy mà các khu công nghiệp và các nhà máy đó hiện mới đang trong tình trạng giải phóng mặt bằng hoặc bắt đầu đi vào triển khai xây dựng. Có thể nói nhu cầu về việc làm hiện nay đối với lao động của địa phương đang rất cấp thiết. Trong khi trung tâm dạy nghề của huyện còn nhỏ về quy mô và số lượng ngành nghề không đủ điều kiện để đào tạo hết số lao động tại địa phương mình. Phần lớn số lao động nam của địa phương vẫn phải tìm đến các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,… để học nghề. Sau đây là bảng số liệu về mức độ giải quyết việc làm của các dự án đã xây dựng xong và đi vào hoạt động.

Bảng 2.11: Hiệu quả đầu tư của các DA đã triển khai thực hiện trên địa bàn huyện Phổ Yên, 2006 - 2008

Chỉ tiêu

ĐVT

Số lượng

1. Số dự án

DA

13

2. Diện tích giao đất

Ha

110,81

3. Diện tích đất sử dụng

Ha

110,29

4. Quy mô vốn đầu tư

Tỷ đồng

910,50

5. Giá trị sản xuất

Tỷ đồng

622

6. Thu ngân sách

Tỷ đồng

11,45

7. Giải quyết lao động

2000

Nguồn: Phòng Tài chính kế hoạch huyện Phổ Yên


Số liệu trên đây chỉ được tính cho 13 dự án đã đi vào hoạt động nhưng hiệu quả mà nó mang lại không hề nhỏ. Cụ thể: tổng diện tích đất được giao là 110,81 ha và đã sử dụng được 110,29 ha; giá trị SX mỗi năm mà các DA này tạo ra là 622 tỷ đồng, đóng góp vào ngân sách là 11,45 tỷ. Nhưng điều quan trọng nhất chúng tôi muốn nói đến là số lao động mà các DA đã giải quyết được, 2000 lao động - một con số không hề nhỏ. Theo kết quả chúng tôi đã điều tra được thì trong 2000 lao động đó có tới 72,5% là lao động là lao động từ địa phương và 27,5% còn lại là lao động từ nơi khác đến. Ở khía cạnh thu nhập, nếu so sánh thu nhập một lao động NN với một lao động trong các khu công nghiệp thì chắc chắn lao động tại khu công nghiệp là cao hơn. Tuy nhiên muốn trở thành lao động trong các khu công nghiệp đó thì người dân cần phải đạt một trình độ nhất định nào đó về tay nghề. Trong thời gian tới, huyện Phổ Yên còn là điểm hấp dẫn cho rất nhiều nhà đầu tư mới vì vậy cơ hội đặt ra về việc làm cho người dân địa phương là rất cao.

Đến đây có thể khẳng định, ĐTH vừa góp phần tạo ra ngày càng nhiều việc làm cho người dân và cũng chính nó sẽ thúc đẩy công nghiệp nông thôn ngày một phát triển. Một cơ hội tốt mà chính quyền và người dân địa phương cần phải tận dụng.

Ảnh hưởng tới các vấn đề xã hội khác


- Về an ninh trật tự


Tình hình an ninh, chính trị - trật tự an toàn xã hội ổn đinh và được giữ vững. Tuy vậy, theo đánh giá Huyện Phổ Yên còn một số công tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội có chất lượng, hiệu quả chưa cao: Công tác phòng ngừa tội phạm chưa được đẩy mạnh thường xuyên, thiếu đồng bộ; Công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự và an toàn xã hội còn hạn chế, phạm pháp hình sự - tai nạn giao thông giảm nhưng chưa


cơ bản. Thêm vào đó, cùng với sự phát triển của các khu đô thị, khu công nghiệp mới sẽ tạo điều kiện cho các tệ nạn ma tuý, mại dâm, cờ bạc gia tăng, gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội và nhân dân; Như vậy về mặt trị an, xét trên phạm vi toàn xã hội thì ĐTH không gây nhiều biến động lớn nhưng đối với người nông dân thì nó đã gây ra không ít các ảnh hưởng không tốt.

- Về môi trường


Phổ Yên là Huyện công - nông nghiệp, vấn đề môi trường ở đây cũng đã và đang xuất hiện những dấu hiệu bất cập cần được xem xét cả trên 3 góc độ là ô nhiễm không khí, tiếng ồn và ô nhiễm nguồn nước, rác thải, nhất là khu vực các thị trấn, các xã lân cận.

+ Với môi trường nước, không khí


Môi trường tuy được quan tâm cải thiện trong những năm gần đây nhưng chất lượng chưa đạt yêu cầu đề ra. Khối lượng chất thải công nghiệp ngày càng tăng trong đó tỷ lệ được xử lý còn rất hạn chế và ô nhiễm ở các làng nghề TTCN đang làm xuống cấp môi trường không khí và môi trường nước.

+ Về thực trạng ô nhiễm rác thải.


Khâu thu gom, xử lý rác thải trong Huyện chưa đạt yêu cầu đề ra. Lượng rác thải được thu gom hàng năm mới chiếm khoảng 50% tổng lượng rác thải phát sinh. Các thiết bị chuyên dùng hiện đại thực hiện khâu thu gom, vận chuyển rác còn thiếu. Rác thải công nghiệp tăng nhanh cùng với sự tăng trưởng nhanh của công nghiệp trên địa bàn Huyện nhưng năng lực xử lý còn hạn chế, công nghệ xử lý chưa triệt để, chưa có hiệu quả kinh tế. Rác thải sinh hoạt của nhân dân, trường học, bệnh việc ngày càng nhiều, các thị trấn chỉ thực hiện thu gom rác phải mà chưa có biện pháp phân loại, xử lý, chôn cất và phân huỷ. Trong tương lai tới mà một vấn đề nổi lên cần phải có biện pháp xử lý và quy hoạch khu vực xử lý rác thải.

Xem tất cả 142 trang.

Ngày đăng: 15/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí