Phối Hợp Với Các Hiệp Hội, Ngành Hàng Thực Hiện Các Biện Pháp Để Phòng Tránh Bị Kiện Chống Bán Phá Giá

- Đối với các công nghệ hoặc thiết bị khó nhập khẩu hoặc nhập khẩu quá đắt, các doanh nghiệp cần hợp tác với các cơ quan nghiên cứu khoa học kỹ thuật của Nhà nước cùng đầu tư nghiên cứu thiết kế chế tạo.

- Các doanh nghiệp cần khai thác các thông tin qua mạng để đi theo các hướng công nghệ mới và tìm kiếm sự trợ giúp kỹ thuật từ bên ngoài doanh nghiệp.

- Tận dụng khả năng đóng góp của các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài.

- Dựa vào sự hỗ trợ của Nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu để hiện đại hóa công nghệ của mình.

- Tìm kiếm cơ hội liên doanh với các đối tác EU có khả năng công nghệ hiện đại.

- Doanh nghiệp cần coi việc hiện đại hóa công nghệ là một quá trình phát triển tích tụ từ thấp đến cao, trong đó xác định mức công nghệ mà doanh nghiệp cần có để tạo ra sản phẩm có ưu thế cạnh tranh tổng hợp [8].

2.4. Phối hợp với các hiệp hội, ngành hàng thực hiện các biện pháp để phòng tránh bị kiện chống bán phá giá

Như chúng ta đã biết, thời gian qua trên thế giới có rất nhiều vụ kiện chống bán phá giá (CBPG) và số lượng các vụ kiện ngày càng tăng nhanh. Trong đó, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia bị kiện nhiều nhất; riêng năm 2004 đã có tới 6 vụ (trong tổng số 20 vụ kiện CBPG từ trước đến nay). Nhìn lại 20 vụ kiện CBPG đối với hàng Việt Nam, thì vụ kiện về cá da trơn (cá basa) và tôm là 2 vụ có quy mô và phức tạp nhất. Khởi kiện nhiều nhất là EU (9 vụ), tiếp đến là Hoa Kỳ (2 vụ), Canađa (2 vụ) còn lại là Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Peru [20].

Để tránh được những vụ kiện chống bán phá giá lên hàng hóa xuất khẩu của mình từ các nước khác nói chung và từ EU nói riêng, các doanh nghiệp nên thực hiện một số biện pháp sau:

Thứ nhất, các doanh nghiệp cần chuẩn bị và hoàn thiện tài liệu, sổ sách liên quan đến công tác kế toán, kiểm toán quá trình sản xuất và kinh donah nhằm minh bạch hóa và là những bằng chứng thuyết phục chống lại việc áp đặt thuế chống bán phá giá. Đây là những cơ sở quan trọng nhất xác định có hay không hàng xuất khẩu của Việt Nam bán phá giá. Thông thường, Ủy ban Châu Âu muốn ra phán quyết áp thuế chống bán phá giá phải dựa trên những điều tra, xác minh tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, toàn bộ những chi phí đầu vào và chi phí đầu ra của doanh nghiệp sẽ được phản ánh trên sổ sách kế toán và do công ty kiểm toán chứng nhận. Nếu như, những chi phí này tương ứng với cùng các quốc gia trong khu vực có cùng trình độ phát triển và rõ ràng, minh bạch thì Ủy ban Châu Âu sẽ khó khăn khi đưa ra một chứng cứ để áp thuế chống bán phá giá. Cho nên, để dễ dàng trả lời các câu hỏi của Ủy ban này thì nhất thiết các doanh nghiệp Việt Nam phải có hệ thống sổ sách kế toán thật minh bạch, đầy đủ và rõ ràng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Thứ hai, tập trung vào sản xuất những mặt hàng có giá bán cao. Biện pháp này xuất phát từ lý do sau:

- Những mặt hàng có giá bán thấp thường là những mặt hàng dễ làm, dễ bán nhưng lại gặp phải sự cạnh tranh rất gay gắt của nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường EU như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Thái Lan...và nhiều quốc gia xuất khẩu khác có cùng trình độ sản xuất và cũng là nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu của các quốc gia này thì việc cạnh tranh mạnh mẽ sẽ xẩy ra là tất yếu. Nếu cạnh tranh về giá cả thì một số mặt hàng xuất khẩu của ta không thể cạnh tranh được với mặt hàng của Trung Quốc kể cả về số lượng. Bên cạnh đó, giá cả của nhiều nhóm hàng của các quốc gia khác cũng có giá tương tự như giá của Việt Nam. Rõ ràng là, nếu các doanh nghiệp Việt Nam chỉ tập trung vào sản xuất những mặt hàng có mức giá rẻ sẽ gặp phải nhiều bất lợi về cạnh tranh.

Xuất khẩu hàng hóa vào thị trường EU - Cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam - 11

- Hơn nữa, các mặt hàng giá rẻ của Việt Nam cũng thường xuyên là tâm điểm của các vụ kiện chống bán phá giá của EU. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam nên thay đổi lại cơ cấu sản xuất và kinh doanh, nhắm tới các mặt hàng có giá cao hơn, vừa tránh được rào cản chống bán phá giá, đồng thời vừa tiếp cận với nhóm khách hàng có thu nhập cao, vừa nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường EU.

Thứ ba, các doanh nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh thực hiện mô hình nhượng quyền kinh doanh. Đây là mô hình rất phổ biến trên thế giới nhưng lại chưa quen thuộc với các doanh nghiệp Việt Nam. Mô hình nhượng quyền kinh doanh có hai loại điển hình là nhượng quyền phân phối sản phẩm và nhượng quyền sử dụng công thức kinh doanh. Với hình thức nhượng quyền phân phối sản phẩm, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam có thể mua giấy phép (licensing) sử dụng thương hiệu của mặt hàng của các quốc gia có thương hiệu nổi tiếng trên thị trường EU, tự điều hành hoạt động kinh doanh một cách độc lập trong một khoảng thời gian nhất định mà ít bị ràng buộc bởi những quy định từ các doanh nghiệp nhượng quyền. Điều này giúp cho doanh nghiệp Việt Nam tránh được những vụ kiện chống bán phá giá, uy tín của doanh nghiệp Việt Nam tăng lên và khả năng cạnh tranh sẽ được nâng lên. Biện pháp này còn là một yếu tố giúp các doanh nghiệp Việt Nam xây dựng và phát triển thương hiệu trong tương lai. Với hình thức nhượng quyền sử dụng công thức kinh doanh thì các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu của Việt nam còn được chuyển giao thêm các kỹ thuật kinh doanh và cách thức điều hành quản lý. Đây là hình thức kinh doanh hiệu quả nhất bởi doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải thực hiện những quy định, quy trình nghiêm ngặt trong kinh doanh theo tiêu chí đặt ra của các doanh nghiệp có thương hiệu nổi tiếng và quen thuộc với các khác hàng EU. Trong hình thức này, mối liên hệ giữa bên cho thuê và bên đi thuê thương hiệu rất chặt chẽ để đảm bảo uy tín và giá trị thương hiệu luôn được giữ vững. Với hình thức này,

các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiếp thu được kinh nghiệm quản lý, cách thức điều hành sản xuất kinh doanh phù hợp với những nhóm khách hàng có thu nhập cao và yêu cầu khắt khe về sản phẩm, những nhóm khách hàng quen sử dụng hàng có thương hiệu nổi tiếng.

Thứ tư, thực hiện tốt quan hệ công chúng. Đó là thiết lập những mối quan hệ với các hiệp hội, đại diện nhóm khách hàng, nhóm bảo vệ môi trường, hiệp hội công đoàn trên thị trường EU...có liên quan đến mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Trong thương mại quốc tế, việc sử dụng biện pháp quan hệ công chúng rất phổ biến nhằm tạo ra những làn sóng phản đối từ phía người tiêu dùng EU, hay những sức ép từ các hiệp hội, ngành nghề về những quyết định chưa đúng đắn của chính phủ các quốc gia trong EU. Những yếu tố này dễ dàng thay đổi các quyết định của chính phủ hay Ủy ban Châu Âu. Điều quan trọng là các doanh nghiệp cần tạo ra những mối quan hệ tốt, những điều thiện cảm đối với những nhóm công chúng này như tích cực bảo vệ môi trường, thực hiện tốt Luật Lao động, nhằm bảo đảm quyền lợi người lao động trong các doanh nghiệp. Đây cũng là biện pháp mà các doanh nghiệp Việt nam chưa khai thác tốt bởi thiếu tính tập hợp, tập trung, liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU.

Thứ năm, nâng cao vai trò của hiệp hội ngành nghề của Việt Nam trong liên kết hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu. Việt Nam gia nhập vào WTO chưa lâu, các doanh nghiệp phần nào còn bỡ ngỡ do vậy sự hỗ trợ của các hiệp hội ngành nghề là rất cần thiết, các hiệp hội sẽ là cầu nối giữa các doanh nghiệp Việt Nam với thị trường EU, giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các Hiệp hội của EU, cùng với các doanh nghiệp Việt Nam tìm ra cách thức để giải quyết khi vấp phải những rào cản thương mại và phi thương mại.

Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng nên kêu gọi sự hỗ trợ từ phía Nhà nước trong việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm đối với hàng hóa có nguy

cơ bị kiện chống bán phá giá để góp phần hạn chế được những thiệt hại do các vụ kiện chống bán phá giá gây ra cho các doanh nghiệp Việt Nam [15].

2.5. Xây dựng thương hiệu cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường EU

Tuy hàng Việt Nam xuất khẩu vào EU qua các năm có tăng song vẫn chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với nhu cầu của EU hàng năm. Các nước khu vực Châu Á như Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông... đã nhập khẩu hàng của Việt Nam sau đó tái chế và tái xuất sang thị trường EU. Do vậy hàng Việt Nam vẫn chưa thâm nhập trực tiếp được nhiều vào thị trường EU. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này là các doanh nghiệp Việt Nam chưa chú trọng xây dựng thương hiệu riêng cho hàng hóa của mình.

Trong thời đại ngày nay, mỗi doanh nghiệp trong quá trình hoạt động và phát triển, muốn đứng vững trên thị trường thì cần phải có những sản phẩm đóng vai trò chủ đạo và có thương hiệu riêng. Thương hiệu là hình ảnh của sản phẩm, hình ảnh của doanh nghiệp, thể hiện uy tín của doanh nghiệp và thay mặt doanh nghiệp cam kết với khách hàng về chất lượng và độ an toàn của sản phẩm, nên đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có trách nhiệm hơn với tên tuổi của mình.

Với ý nghĩa như vậy, việc xây dựng, củng cố và phát triển thương hiệu là công việc vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài của mỗi doanh nghiệp Việt Nam. Để làm tốt việc này, các doanh nghiệp cần thực hiện những điều sau:

- Cần coi thương hiệu là tài sản quý giá mà mọi doanh nghiệp cần có.

- Xây dựng chiến lược phát triển và quảng bá thương hiệu ngay từ khi mới thành lập doanh nghiệp

- Khi đã có thương hiệu thì cần tiến hành đăng kí thương hiệu tại thị trường EU

- Có đội ngũ chuyên gia xây dựng thương hiệu có tầm nhìn xa, nắm vững chiến lược Marketing doanh nghiệp, hiểu biết sâu sắc về sản phẩm, có khả năng sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, màu sắc, hình ảnh để diễn đạt ý tưởng.

Xây dựng được thương hiệu thì việc bảo vệ thương hiệu cũng là vấn đề vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp khi xuất khẩu sang thị trường EU trong điều kiện hội nhập hiện nay. Thương hiệu là tài sản vô hình nhưng có giá trị rất lớn. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, đăng ký thương hiệu tại thị trường nước ngoài và EU nói riêng mang ý nghĩa sống còn. Doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ thuật sở hữu của EU. Sản phẩm của mình thuộc hệ thống sở hữu trí tuệ nào để doanh nghiệp có thể tham gia đăng ký theo hệ thống đó. Việt Nam chỉ bảo hộ thương hiệu là nhãn mác, bao bì...của sản phẩm, nhưng ở EU cho phép đăng ký cả mùi vị, màu sắc, khẩu hiệu, nhạc hiệu...của sản phẩm mà doanh nghiệp đăng ký.

Hiện nay, các nước thành viên EU đang áp dụng hệ thống CTM (Community Trade Mark). Nếu doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu vào EU thì có thể đăng ký qua hệ thống CTM. CTM không yêu cầu nước xuất xứ của doanh nghiệp có nhu cầu đăng ký thương hiệu phải gia nhập vào hệ thống này. Doanh nghiệp chỉ cần đăng ký một lần qua hệ thống này thì thương hiệu sẽ được bảo hộ tại toàn bộ các thành viên EU và cả Thụy Sĩ. Chi phí một lần đăng ký là khoảng 4000USD, đơn sẽ nộp ở văn phòng tại Thụy Sĩ, không cần qua Cục sở hữu Công nghiệp. CTM không yêu cầu doanh nghiệp phải có sản phẩm tại tất cả các nước mà chỉ cần có ở một nước trong khu vực được bảo hộ, đồng thời doanh nghiệp cũng không cần phải đăng ký thương hiệu tại Việt Nam trước khi đăng ký vào EU. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc đăng ký thương hiệu vào từng nước chiếm chi phí khá lớn trong khi doanh nghiệp xuất khẩu với số lượng nhỏ. Do đó, đăng ký

qua hệ thống CTM này sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng được thị trường, đồng thời bảo vệ được thị phần của mình trong toàn cộng đồng Châu Âu [16].

2.6. Áp dụng thương mại điện tử trong kinh doanh hàng xuất khẩu

Các doanh nghiệp Việt Nam nên đẩy mạnh việc áp dụng thương mại điện tử vì thương mại điện tử đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích to lớn như cung cấp thông tin nhanh chóng và cập nhật về thị trường EU, sự biến động cung cầu, giá cả, thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng EU..(qua một số website như www.europa.eu.int) giảm chi phí cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp chủ động tìm kiếm đối tác. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng xây dựng website cho mình để cung cấp thông tin về doanh nghiệp nói chung, thông tin về uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, các mặt hàng xuất khẩu, thông tin về các chính sách Marketing, xúc tiến bán hàng, chính sách khách hàng..để đối tác EU nắm bắt và quyết định đặt quan hệ hợp tác. Website của doanh nghiệp được ví như một văn phòng ảo, bởi nó góp phần xây dựng uy tín, hình ảnh cho doanh nghiệp. Văn phòng này hoạt động 24h mỗi ngày, 7 ngày trong tuần, trong khi đó để duy trì một văn phòng đại diện ở EU đòi hỏi chi phí cao và đôi khi không hiệu quả [3].

2.7. Tìm nguồn tín dụng hỗ trợ nhập khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu

Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay tham gia sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn kinh doanh ít, lại chưa có nhiều kinh nghiệm trong thương trường của một nền kinh tế thị trường, nên gặp rất nhiều hạn chế trong việc xúc tiến thương mại cũng như việc đề ra chiến lược lâu dài vươn ra thị trường nước ngoài. Để hạn chế bớt những khó khăn về vốn, các doanh nghiệp cần tiếp cận các nguồn vốn của các ngân hàng hay của các quỹ tín dụng trong khi nhà nước chưa có ngân hàng chuyên doanh hoặc quỹ bảo lãnh tín dụng.

Các doanh nghiệp cần khai thác tác dụng tích cực của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, các tổ chức quốc tế hay các hiệp

hội ngành hàng để tham gia triển lãm, hội chợ, hội thảo ở trong nước hoặc ở nước ngoài, tìm kiếm sự hỗ trợ ở trong và ngoài nước để lập văn phòng, phòng trưng bày, lập kho ngoại quan hay chi nhánh công ty tại nước ngoài để thực hiện công tác khuếch trương cho sản phẩm hay dịch vụ của mình [8].‌

III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC

1. Tiếp tục coi EU là thị trường trọng điểm, xây dựng chiến lược phát triển thị trường EU thông qua việc đàm phán, kí kết các hiệp định thỏa thuận song phương và đa phương

Nhà nước nên căn cứ vào việc chuyển hướng cơ cấu kinh tế của EU và vai trò của khối này trên trường quốc tế để định hướng thị trường và đưa ra các chính sách thương mại thích hợp. Nghĩa là cần có một chính sách coi thị trường EU là một trong những thị trường xuất khẩu quan trọng nhất.

Với kim ngạch và cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay sang thị trường EU ta thấy EU là một thị trường chiến lược đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như giày dép, dệt may, thủy hải sản, nông sản, đồ gỗ, đồ thủ công mỹ nghệ...sẽ còn tiếp tục gia tăng lượng kim ngạch xuất khẩu vào EU. Bên cạnh đó xu hướng chuyển dịch sang xuất khẩu các hàng có hàm lượng chất xám cao như đồ điện tử, vi tính..đang dần tăng lên và nhu cầu về thị trường các loại hàng hóa này sẽ trở nên ngày càng bức thiết hơn bao giờ hết.

Theo kinh nghiệm của các nước đi trước theo con đường công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu thì bằng mọi cách phải thâm nhập được vào thị trường các nước phát triển để tạo hiệu quả cao, không chỉ về doanh thu mà cả về công nghệ, phân công lao động quốc tế, lợi thế so sánh trên thị trường thế giới. Việt Nam cần khai thác những mặt mạnh của EU trong kỹ thuật cơ khí tiên tiến, chế biến nông, thủy sản, lắp ráp ô tô, điện tử, kinh nghiệm quản lý kinh tế và sản xuất công nghiệp. Muốn nắm bắt được lợi thế này, một chính

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/10/2022