Thơ Đường Luật Nửa Đầu Thế Kỷ Xx Vẫn Tiếp Tục Tồn Tại Trên Báo Chí Và Trong Phong Trào Thơ Mới

Lưc

văn đoàn và Thơ Mới đã góp phần đưa tiếng Viêṭ văn hoc

viết bằng chữ Quốc

ngữ lên đỉnh cao , đaṭ đến trình đô ̣nhuần nhuy , trong sań g và tinh tế , đủ khả năng

diên

đaṭ những điều sâu kín nhất trong tâm hồn con người với những cung bâc

, sắc

thái tình cảm khác nhau . Chính thành tựu của Tự Lực văn đoàn và Thơ Mới đã góp phần hoàn thiện quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam . Đặc biệt là phong trào

Thơ Mới, đã làm cho vườn hoa văn hoc

dân tôc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 173 trang tài liệu này.

vốn đã phong phú , đa daṇ g tr ước

đó, nay càng thêm nhiều vẻ ́i nhiều hương thơm , sắc thắm. Nói như nhà phê bình

Xác lập mã nghệ thuật thơ Đường luật của Quách Tấn - 8

Hoài Thanh, phong trào Thơ Mới thâṭ sư ̣ đã làm nên “môt

cuôc

cách mệnh trong thơ

ca” [74,tr.19]. Cuôc

cách maṇ g này không chỉ diên

ra ở phương d iên

nghê ̣thuâṭ như

phá bỏ những lối diễn đạt ước lệ , những công thứ c gò bó , những quy pham

khuôn

khổ…, thay vào đó là cách diên đaṭ mới ; mà còn diễn ra ở cả phương diện nội dung

như thể hiên

sư ̣ cảm nhân

́i mẻ về tâm hồn con người và thế giới hiên

thưc

khách

quan môt

cách tinh tế , tư ̣ nhiên và chân thành hơn . Vấn đề vừa nêu thuộc phạm trù

tư duy nghệ thuật.

Phong trào Thơ Mới đã ghi nhân


nhiều tên tuổi lớn của nền văn hoc


hiên


đai

như Thế Lữ, Lưu Troṇ g Lư, Hàn Mặc Tử, Xuân Diêụ , Huy Cân

, Nguyên

Bính, Chế

Lan Viên , Quách Tấn , Bích Khê v .v..; trong đó , xuất hiên nhiêù nhóm thơ như

nhóm Xuân thu nhã tâp, nhóm Huy Xuân, nhóm Bàn Thành tứ hữu v.v.. Nhờ phong

trào Thơ mới mà diện mạo văn học Việt Nam giai đoạn này thật sự khởi sắc , cái tôi cá nhân trữ tình được khẳng định rõ nét , tạo bước nhảy vọt trong quá trình hiện đại hóa văn học như lời khẳng định của nhà phê bình Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện

đaị : “ở nước ta, môt năm có thể kể như ba mươi năm của người” [51].

Cuộc giao lưu tiếp xúc với phương Tây như “…môt

cơn gió maṇ h bỗng từ xa

thổi đến . Cả nền tảng xưa kia bị một phen điên đảo , lung lay . Sư ̣ găp g ỡ phương

Tây là môt

cuôc

biến thiên lớn nhất trong lic̣ h sử Viêṭ Nam từ mấy mươi thế kỷ

[74,tr.15]. Nếu trước đây những trí thức thời xưa vốn chỉ biết giao lưu văn hoá trong khu vực: văn hoá Hán mà chủ yếu là tư tưởng Nho giáo thì giờ đây khi tiếp xúc với văn hoá Phương Tây , họ đã bắt đầu đọc và trích dẫn những tân thư của Mạnh Đức

Tư Cưu (Montesquieu) hay Lư Thoa (J.J.Rousseau). Họ từng bước chấp nhận chữ quốc ngữ , một thứ chữ ghi âm do người phương Tây tạo ra . Lúc này, những tư tưởng phương Tây được quảng bá trên Đông Dương tạp chí Nam Phong tạp chí.

Một thế hệ thi sĩ mới đã làm một cuộc cách tân để tìm lối thoát cho thơ. Cuộc đổi mới văn tự đã đưa chữ quốc ngữ lên ngôi. Báo chí tiếng Việt chữ Quốc ngữ nở rộ khắp ba miền, bên cạnh các hình thức sinh hoạt văn hoá, văn nghệ mới như kịch, điện ảnh… cũng phát triển.

Riêng về thơ, trong vài thập niên đầu thế kỷ XX , trên các báo xuất hiện những bài thơ Đường luật với đề tài và nội dung tả cảnh , vịnh sử , thù tạc đầy khuôn sáo, nhạt nhẽo. Vì thế mà năm 1917, trên Nam Phong tạp chí (số 5), Phạm Quỳnh đã lên tiếng phàn nàn về đặc điểm thiếu giọng thiên nhiên của lối thơ Đường luật, đề nghị các nhà thơ nên tiếp nhận một ít sắc thái của thơ Pháp để đổi mới cho thơ Việt, làm cho thơ Việt điều hoà được cái hay giữa phần nhân công và phần thiên thú. Tiếp đó, Phan Khôi trên Đông Pháp thời báo (1928) và Trịnh Đình Rư trên Phụ nữ tân văn (1929) cũng hùng hồn tỏ bày ý kiến về vấn đề này , mà ở mục Lịch sử vấn đề, luận văn có nêu (xem 2.2). Thơ cũ đã bị bài bác. Lúc này, nhu cầu đổi mới thi ca trở nên bức bối. Ngày 10-03-1932, tờ Phụ nữ tân văn (số 122), có đăng bài Một lối Thơ Mới trình chánh giữa làng thơ của Phan Khôi, tác giả đã dõng dạc cất lời kêu gọi: Duy tân đi! Cải lương đi! và đưa ngay bài thơ Tình già của mình ra làm ví dụ sinh động. Tình già khó có thể được xem là một bài thơ xuất sắc . Tuy vậy , phải công nhận rằng bài thơ có nhiều điểm „ gây sự‟ với loại thơ mà người ta vẫn quen làm,

quen đọc trước đó. Đó là số câu kéo dài theo nhu cầu kể việc và thổ lộ tình cảm; số

chữ trong các câu không đều nhau, không cần niêm luật, đặc biệt, một câu chuyện tình cảm có vẻ „phất phơ‟ được thuật lại khá chi tiết, không một chút ngượng ngùng,… Từ đó, cái ngày bài Tình già ra mắt làng thơ được xem là ngày khai sinh của phong trào Thơ Mới. Một số nhà Thơ Mới chỉ trích thơ cũ , họ chê thơ Đường luật gò bó , khuôn sáo, hình ảnh cảm xúc thi tứ đều vay mượn , như ý kiến của Lưu

Trọng Lư, Nguyễn Thị Kiêm, Vũ Đình Liên, Trương Tử u,… Trước tình thế ấy, phái thơ cũ cũng phản kháng lại kịch liệt và gay gắt. Họ chê những nhà Thơ Mới là mù quáng, dốt nát , vì không biết làm thơ Đường luật nên chê bai và không biết trân

trọng các thể thơ truyền thống . Cuôc

chiến giữa hai phái không cân đối . Lưc

lương

của phái Mới đông đảo, mạnh mẽ, hăng hái và đăc biêṭ là trẻ hơn phái Cũ, nên ho ̣co

́ c đôt phá hơn . Bên caṇ h đó , các nhà Thơ mới có được một sự hậu thuẫn rất lợi

hại là tờ Phong hóa ́i đôi ngũ là những người rât́ có năng l ực và dày dạn kinh

nghiêm

cùng kiến thức Tây học . Điều mà ho ̣vững tâm khẳng điṇ h trên thi đàn là đa

viết đươc

những bài thơ thâṭ hay của Thế Lữ, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư v.v..

Các nhà Thơ Mới đã đi tìm hình thể cho thơ, thể hiên

cảm xúc chân thực, đề ra

một chuẩn mưc

́i cho cái Đep

. Người đươc

đánh giá cao với những bước đôt

phá

táo bạo và tài hoa bấy giờ là Xuân Diệu . Nếu Thế Lữ đươc xem là người khai phá

của phong trào Thơ Mới với sư ̣ e dè thì Xuân Diêu là người nối tiêṕ mac̣ h khai phá

ấy một cách tinh tế và khám phá cái huyền nhiệm của cuộc sống , của vũ trụ . Cảm xúc trực tiếp của nhân vật trữ tình là một trong những nguyên tắc kết cấu của thơ trữ

tình thuộc phong trào Thơ Mới, có thể nói Thơ Mới về căn bản là thơ lan

g man

. Ở

Thơ Mới, các nhà thơ đã khẳng định mình và tuyên bố quyền sống của mình , ý thức

về mình đã dân

́i ý niêm

về kẻ khác . Cảm xúc và tâm trạng man g đâm

tính chu

quan, nhưng nó có môt

giá tri ̣hiển nhiên cần đươc

tôn troṇ g , đươc

miêu tả như môt

khách thể tồn tại độc lập , thể hiên

cái tôi cá nhân : Tôi là một, là riêng là thứ nhất

của Xuân Diệu trong bài Hy-mã-lạp-sơn, hay Tôi là thi sĩ của thương yêu của

Nguyễn Bính trong bài “Môt

trờ i quan tá i” . Chế Lan Viên trong lời Tưa

tâp

Điêu

tàn đã viết: “Thi sĩ không phải là người , nó là Người Mơ , Người Say, Người Điên. Nó là Tiên , là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại . Nó xáo trộn dĩ vãng .

Nó ôm trùm Tương Lai . Người ta không hiểu đươc nó vì nó nói nhiêù caí vô nghia ,

tuy rằng những cái vô nghia

hơp

lý . Nhưng nó thường không nói . Nó gào, nó thét,

nó khóc, nó cười. Cái cười của nó cũng tột cùng” . Cách thức tạo dựng một thế giới

đầy màu sắc siêu thưc

ấy chính là sư ̣ xác điṇ h mới mẻ và đôc

đáo về bản chất siêu

nhiên của thi sĩ . Nếu Thơ Mới ban đầu là lãng mạn thì về sau lại nghiêng về phía

tươn

g trưng, siêu thưc

. Cái tôi thi nhân đứng ở vị trí trung tâm , nó làm tăng tính tự

giác và hợp quy luật của một trào lưu thơ , nó hóa thân vào những tư cách mới vừa

có bề rộng lẫn bề sâu , tuy Thơ Mới vân

chưa ôm trùm được hết mọi khía cạnh của

cuôc

sống cũng như của nghê ̣thuât

, nhưng nó đã đánh dấu môt

bước chuyển lớn

của thơ trữ tình Việt Nam từ phạm trù trung đại sang phạm trù hiện đại với một

quan niêm

và tư duy nghê ̣thuâṭ mớ i, môt

hê ̣thống phương thứ c mới khi tái hiên

hiện thực cuôc sống.

Trong quá trình giao lưu văn hoá , sư ̣ du nhâp̣ là điều không thể tránh khỏi. Thơ ca Pháp như môt

của thơ ca Pháp vào thơ ca Viêṭ luồng gió ́i thổi vào hồn thơ

Viêt. Thơ Mới đã thoát khỏi sư ̣ ràng buôc

có tính quy pham

của thơ cách luật , đổi

́i về măṭ thi pháp và tư duy thơ , tư duy bằng liên tưởng , bằng ấn tươn

g , bằng

cảm giác , bằng âm thanh , nhịp điệu , biến cái trừ u tương thaǹ h cu ̣thể ,... là do ảnh

hưởng của tư duy thơ hiên

đai

, nhất là trong thơ Pháp. Người đọc không lấy làm lạ

là trong Thơ Mới lại chịu ảnh hưởng đậm đặc thơ ca Pháp, nhất là thơ tượng trưng.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “Theo nghĩa rộng tượng trưng là hình tượng được hiểu ở bình diện ký hiệu, là ký hiệu chứa đựng tính đa nghĩa của hình tượng. Mọi tượng trưng đều là hình tượng, nhưng phạm trù tượng trưng nhắm chỉ cái phần mà hình tượng vượt khỏi chính nó, chỉ là sự hiện diện của một nghĩa nào đó vừa hoà hợp với hình tượng, vừa không đồng nhất hoàn toàn vào hình tượng. (…) Theo nghĩa hẹp tượng trưng là một dạng chuyển nghĩa (tương tự như phúng dụ). Khi kết hợp hai bình diện: nội dung “vật thể” và nghĩa bóng của nó sẽ tạo thành một đối sánh tượng trưng. Mỗi yếu tố của hệ thống nghệ thuật (ẩn dụ, so sánh, tả phong cảnh, các chi tiết, nhân vật v.v..) đều có thể trở thành tượng trưng, nhưng chúng có thành tượng trưng hay không, là do các dấu hiệu: 1) Độ cô đúc của sự khái quát nghệ thuật. 2) Dụng ý của tác giả muốn vạch ra ý nghĩa tượng trưng của những điều mình miêu tả. 3) Văn cảnh tác phẩm, hệ thống sáng tác của nhà văn cho thấy một ý nghĩa tượng trưng độc lập với dụng ý miêu tả cụ thể của tác giả. 4) Văn cảnh văn học của thời đại.” [22, tr.331-332]

Những nhà thơ tượng trưng của Pháp như: Baudelaire (1821-1867), Rimbaud (1854-1891), Verlaine (1844-1896), Mallarmé (1842-1898), Valery (1871-1945)…

và những nhà thơ lan

g man

như : Lamartine (1790-1869), Alfred de Vigny (1797-

1865), Victor Hugo (1862-1885) và nhóm Thi Sơn: Theophile Gautier, Leconte de Lisle, Sully Prudhomme… đều có ảnh hưởng sâu đậm đến Thơ Mới ở ta.

Huy Cân

, Xuân Diêu

, Hàn Mặc Tử, Đoàn Phú ́ , Bích Khê ,… đã chịu ảnh

hưởng thơ tươn

g trưng của Baudelaire , Verlaine,… nhưng người chiu

ản h hưởng

Baudelaire sâu sắc phải kể đến Bích Khê và Hàn Mặc Tử với những bài thơ mang

tính tượng trưng và siêu thực . Các bài thơ của Verlaine như : Tiếng há t mù a thu ,

Mưa rơi dìu diu

trên thà nh phố ,… đã ảnh hưởng trong thơ Huy Cân

, Lưu Trọng Lư.

Các bài : Núi xa , ̉ i hương cho gió của Xuân Diệu lại phảng phất tâm trạng của Baudelaire trong bài Chim hải âu . Các bài : Mai sau, Trò chuyện của Huy Cận lại

gần gũi với những bài : Những hải đăng, Cầu phú c của Baudelaire. Bài Con tà u say

của Rimbaud đã gợi tứ cho tác phẩm ̀ i con đườ ng quê của Tế Hanh.

Thơ ca Pháp đã ảnh hưởng rõ rêṭ và sâu sắc đến Thơ Mới trong cách gieo vần ,

lối ngắt nhip

, lối bắt cầu , cách làm cho ngôn ngữ giàu n hạc điệu , lối diên

tả bằng

cảm giác tinh tế . Có khá nhiều bài thơ Pháp có tác dụng gợi ý cho những bài thơ Viêṭ như: Cái bình vỡ của Sully Prudhonune và Vết thương lòng của Lan Sơn; U uất của Baudelaire và Đá m ma đi của Lan Sơn; Những con voi của Leconte de Lisle và

Chiến tươn

g của Chế Lan Viên , Con voi già của Huy Thông ; Măt

trăng bac

của

Verlaine và Mây lưng chừ ng hà ng của Xuân Diệu ,… Những ảnh hưởng của thơ ca

lãng mạn và tượng trưng của Pháp đ ến Thơ Mới cũng rất phứ c tap

. Có khi là sự gặp

̃ của môt

tâm traṇ g , môt

ý nghĩ , nhưng cũng có khi là sư ̣ giống nhau của môt

môtip hay môt

hình ảnh ,… Nhac

điêu

của thơ tươn

g trưng Pháp đã ảnh hưởng sâu

sắc đến nhac

điêu

thơ của Lưu Troṇ g Lư , Bích Khê, Nguyên

Xuân Sanh . Thơ của

Lưu Troṇ g Lư có cái êm dịu , mơ màng , trong sáng của Verlaine . Về nhac Bích Khê gần với Baudelaire hơn.

điêu

thi

Nếu ban đầu Thơ Mới chịu ảnh hưởng sâu đậm thơ Pháp thì về sau Thơ Mới có sự kết hợp một cách nhịp nhàng giữa thơ Đông và Tây , đó là sự tương hợp âm thanh, màu sắc con người và vũ trụ của Đường thi vớ i thơ Pháp trên cơ sở ngôn ngữ và truyền thống văn hoá Việt. Thơ Mới đã cải tạo lại thơ trữ tì nh tiếng Viêṭ từ câu

thơ điêu

ngâm sang câu thơ điêu

nói . Ngôn ngữ Thơ Mới gắn với lời nói và dòng

ngữ điêu, cảm xúc của con người . Thành tựu nhất của Thơ Mới là giải phóng câu

thơ, tạo dáng lại cho câu thơ . Thơ Mới có thể giãi bày mọi bí mật của cõi lòng riêng tư, từ nỗi buồn , sư ̣ cô đơn , những khao khát , sư ̣ chán chường , ghen tuông,… Nếu các nhà thơ cổ chỉ biết vịnh cảnh , vịnh vật, tỏ chí mà không nói đến tình cảm riêng

tư của mình, thì các nhà Thơ Mới thể hiên những đề taì́i , lâý caí tôi cá nhân lam̀

trung tâm. Thơ Mới với thi pháp mới và phát hiện ra cái tôi, bôc lô ̣ cái tôi hêt́ sứ c

đa daṇ g , hấp dân

và phứ c tap

, môt

cái tôi cá nhân (l‟individu) với tư cá ch là đối

tươn

g nhân

thứ c và phản ánh của thi ca trong quá trình phát triển của văn hoc

. Các

nhà Thơ Mới đã gaṭ bỏ moi

ràng buôc

ước lê ̣ , luân lý ,… của môt

thời kỳ để trở về

́i con người mình , tìm thấy chính mình , họ nói bằng những rung cảm trực tiếp và

mãnh liệt. Trong viêc

trở về với cái tôi của mình, Thơ Mới đã găp

̃, hòa đồng vào

văn hóa dân tôc

và văn hóa nhân loai

. Các nhà Thơ Mới đã thể nghiêm

thành công

các thể thơ truyề n thống như : Câu thơ tám âm tiết (phát triển từ thể ca trù ), câu thơ bảy âm tiết (xử lý laị thất ngôn Đường luâṭ), câu thơ năm âm tiết (xử lý laị ngũ ngôn Đường luật). Bên caṇ h đó , các câu thơ bảy âm tiết (có trong ca vè dân gian), câu thơ

sáu âm tiết (lục ngôn) và thể lục bát , song thất lục bát truyền thống cũng đươc giữ

lại. Nhờ thế, Thơ Mới có nhiều khả năng diễn đạt hơn thơ cũ . Trong Thi nhân Viêt

Nam, Hoài Thanh đã nhận định : “Phong trào Thơ Mới trước hết là môt

cuôc

thi

nghiêm

táo bao

để điṇ h giá laị giá tri ̣những khuôn phép xưa” [74,tr.49].


hiên

Có thể nói Thơ Mới là một bước phát triển đạt đến sự hiện đại cả về mặt biểu cũng như cảm hứ ng thơ ca , với nhiều tác phẩm đạt đến trình độ kiệt tác và đa

tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần , mở rôṇ g cảm xúc và làm cho cảm quan

của con người nhạy bén hơn , tâm hồn tinh tế và hướng tới cái đep hoaǹ haỏ hơn .

Nếu ban đầu Thơ Mới chịu ảnh hưởng thơ ca Pháp thì về sau nó là sự tổng hợp

tuyệt diệu của thơ thơ lan

g man

và thơ tươn

g trưn g Pháp với thơ ca Trung Quốc ,

chủ yếu là Đường thi và thơ ca truyền thống của dân tôc .

1.3.2. Thơ Đường luật nửa đầu thế kỷ XX vẫn tiếp tục tồn tại trên báo chí và trong phong trào Thơ Mới

1.3.2.1. Tình thế tồn tại của thơ Đường luâṭ

Trong hệ thống thể loại của văn học Việt Nam, thơ Đường luật là một trong số các thể loại có lịch sử lâu đời và trong một thời gian khá dài, từng có vị trí gần như là độc tôn trên thi đàn Việt Nam. Hiện chưa có đủ căn cứ để xác định thơ Đường luật vào Việt Nam lúc nào, nhưng việc sử dụng thơ Đường luật để sáng tác ở Việt Nam đã có rất sớm (có thể từ trước thế kỷ X, lúc nước nhà còn bị phong kiến phương Bắc đô hộ). Đặc biệt thể thơ này được Việt hoá bắt đầu vào đời Trần (thế kỷ XIII), để đến thế kỷ XV đã có những thành tựu mẫu mực và sang thế kỷ XVIII, XIX thì phát triển đến đỉnh cao. Có người còn đề nghị coi thơ Đường luật viết bằng tiếng Việt (chữ Nôm và chữ Quốc ngữ) là một trong những thể thơ dân tộc (bên cạnh Lục bát và Song thất lục bát). Nói thế để thấy rằng thơ Đường luật có một số phận lịch sử gắn với dân tộc, cùng chia sẻ buồn vui với người Việt đã tự bao đời.

Bước sang đầu thế kỷ XX, trước những đổi thay lớn lao của thời đại, sự ảnh hưởng của văn hoá phương Tây, những chuyển biến trong nhận thức thẩm mỹ của

lớp thanh niên Tây học, đặc biệt là sự xuất hiện của nhiều thể loại mới, thơ Đường luật mất dần địa vị trên thi đàn. Không ít người sau thất bại của thơ cũ trong trận chiến với Thơ Mới hồi 1932 - 1945, đã đi đến kết luận: sinh mệnh nghệ thuật của thơ Đường luật đến đây là chấm dứt hoặc nếu còn cũng chỉ là cái xác không hồn...

Sự thật không hẳn như thế, nhất là đến nay thời gian đã cho một độ lùi khoảng bảy, tám chục năm, bình tâm nhìn lại, nhận thấy thơ Đường luật vẫn tiếp tục tồn tại

và phát triển. “Môt

cuôc

cách mệnh trong thi ca” [74,tr.19] nổ ra là do các nhà Thơ

́i phê phán những sư ̣ bất câp của thơ cũ, có sự cách biệt giữa các nhà Nh o và́p

trẻ đến mức lớp trẻ “không thể vui cái vui ngày trước ”. Đặc biệt hơn , trước đó Phạm Quỳnh trong bài Bàn về thơ Nô m [Nam phong, số 5, tháng 11-1917] đã có ý

kiến phê phán thơ cũ. Bài viết đã nêu ra những cái tôi trong sań g tác thơ cũ : thât́

niêm, thất luâṭ , khổ đôc̣ , cưỡng áp , trùng ý , trùng chữ , điêp

vâṇ … rất khắc nghiêt

không khác gì luâṭ hình. Chính những điều đó đã làm nảy ra nhu cầu bức thiết phải

thay đổi thơ ca . Lớp trẻ ý thứ c đươc đ iêù naỳ nên đã đâú tranh tư ̣ giaỉ phóng . Họ

khiêu chiến với thái đô ̣không khoan nhươn

g và liều lin

h , hình thành hai trận tuyến

́i môt

bên là các nhà Nho , trong đó cũng có môt

số người trẻ tuổi t heo Tây hoc

nhưng làm thơ cũ, và một bên là các thanh niên Tây học . Các nhà thơ cũ chủ yếu là

làm thơ Đường luâṭ. Thơ Đường luât bị các nhà Thơ Mới tâń công dữ dôị , câǹ tâỷ

chay vì không đáp ứ ng đươc

nhu cầu của thời đaị . Thơ Đường luât

lúc này l âm vào

tình thế của kẻ thất trận và không còn gây sự chú ý của dư luận rộng rãi nữa . Vì thế, thơ Đường luâṭ muốn tồn taị thì tự nó phải biết thích ứng vớ i thời đaị . Trước tình

hình này, thơ Đường luât

găp

phải rất nhiề u khó khăn và có nguy cơ bi ̣đào thải . Đi

tìm nguyên nhân của sự đào thải này , các nhà thơ cũ phát hiện ra những điều cần

cấp bách đổi mới để thơ Đường luât thể hiêṇ .

tồn taị về nôi

d ung, cảm xúc , hình thức, cách

Có sự thay đổi đó, xét đến cùng là do thời đại đổi thay. Trước hết là chủ thể sáng tác đã thay đổi. Trước đây, nhà Nho là nhân vật văn hóa chính trị, họ học hành rồi thi cử để ra làm quan; họ sáng tác thơ Đường luật là để nói chí, ngâm vịnh tính tình và lúc này sáng tác văn học chưa phải là hàng hoá. Còn bây giờ lớp trí thức mới mà vẫn sáng tác theo thể thơ cũ như Tham Toàn, J. Leiba, Thái Can, Quách Tấn,

Ngân Giang… họ là những công chức, họ làm thơ như một nhu cầu nội tâm, và có thể còn do nhu cầu kiếm sống nữa.

Lúc này, nếu thơ quay laị những kiểu ngâm vịnh ngày xưa thì sẽ không còn

́ c sống, nên các nhà thơ cần phải đổi mới về thi hứng , thi pháp. Đặc biệt về mảng

thơ miêu tả cảnh thiên nhiên cần phải thể hiên được những net́ ́i : nhà thơ nhìn

cảnh vật với con mắt khác, nôi

dung thơ phải biểu đạt các sự vật, sư ̣ viêc

cu ̣thể chứ

không công thứ c sáo mòn như trước : Ấp úng không ra được nửa lời / Tình thu tha thiết lắm thu ơi ! (Hàn Mặc Tử ). Hay J. Leiba đã dùng những vần thơ có gioṇ g Đường thi để diễn tả nỗi lòng của người thời nay : Xuân hết, đà o hoa, lý rụng rồi / Hoa đình tic̣ h mic̣ h vẻ xuân phai / Tơi bờ i ong bướ m bay qua ngõ /Những tưởng mùa xuân ở xóm ngoài.

Đặc điểm của thơ Đường luật là cô đọng , hàm súc, đồng thời đây cũng chính là đặc điểm của thơ tượng trưng Pháp . Tuy nhiên, thơ Đường luật ít dùng ngôn ngữ cầu kỳ, bí hiểm như một số nhà thơ lãng mạn và thơ tượng trưng của Pháp đã dùng. Về ngôn ngữ, các nhà Thơ Mới sáng tác theo thể Đường luật đã đổi mới từ ngữ , không còn dùng những từ ngữ quá cũ kỹ , sáo mòn, công thức mang tính ước lệ như trước. Cách ngắt nhịp trong thơ Đường luật giai đoạn này đã có sự biến đổi nhất

đinh, nó phá bỏ sự gò bó chặt chẽ để thể hiên cu ̣thể , sinh đôṇ g và tư ̣ do những cảm

xúc của cá nhân. Vấn đề sẽ được luận văn bàn kỹ ở chương ba.

Là kết tinh của tinh hoa văn học của nhiều thế kỷ nên thơ Đường luật đã có những ưu thế nổi bật. Thơ Đường luật rèn luyện cho con người xử lý hài hoà âm thanh và ý nghĩa, về cách cấu trúc bài thơ. Thơ Đường luật thích hợp với việc diễn tả tình cảm trang trọng, bền vững, không bị đột biến. Chế Lan Viên trong lời Tựa Mùa cổ điển của Quách Tấn đã gọi thơ Đường luật là “nguồn tượng trưng thuần túy nhất”.

Các nhà Thơ Mới đã cảm nhận được những bài thơ trữ tình giàu tình người và tình yêu thiên nhiên của các nhà thơ Đường lãng mạn như Lý Bạch, Vương Xương Linh, Thôi Hiệu, Mạnh Hạo Nhiên… Trần Tử Ngang có lần đứng trước cái mênh mông của không gian và cái xa thẳm của thời gian đã thốt lên trong bài Đăng U Châu đài ca. Và dường như cái buồn mênh mang, lặng lẽ, cô đơn đó của ông đã nhẹ nhàng đi vào thơ Huy Cận: Một chiếc linh hồn nhỏ, / Mang mang thiên cổ sầu.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/02/2024