Great Lakes ở Mỹ, tiếp sau đó là các nghiên cứu quốc gia được thực hiện vào năm 1989, 1992, 1995 và 1998 đã cung cấp những bằng chứng thực tế cho thấy vai trò của dược lâm sàng[66], [67],[68], [69], [70]….Và mới đây nhất, năm 2013, quốc gia nàyđã tiến hành một cuộc khảo sát quy mô quốc gia đánh giá toàn diện hoạt động thực hành dược tại các bệnh viện. Kết quả của cuộc khảo sát khẳng định rằng: dịch vụ dược lâm sàng của các dược sỹ đang phát triển rất mạnh mẽ và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xác định và giải quyết các vấn đề liên quan đến thuốc, cụ thể như sau:trao đổi về phương pháp điều trị với dược sỹ lâm sàng đã được áp dụng 87,2% ở các bệnh viện; tham khảo ý kiến dược sỹ để cải thiện việc kê đơn đã là một việc diễn ra phổ biến, được áp dụng 100% tại các bệnh viện; bệnh án điện tử được áp dụng 92,6% và kê đơn thuốc bằng máy tính với sự trợ giúp của công cụ hỗ trợ ra quyết định kê đơn là 65,2% tại các các bệnh viện[62].
1.1.2.2 Tình hình triển khai thực hành dược lâm sàng tại Việt Nam
Trong khi đó, tại Việt Nam, trước năm 1970 không có khái niệm về dược lâm sàng, nhưng vấn đề sử dụng thuốc an toàn hợp lý rất được quan tâm. Nhóm các bác sĩ và dược sĩ ở Bệnh viện Bạch Mai – Hà Nội là những người đi tiên phong trong lĩnh vực tư vấn kê đơn hợp lý[4].
Từ năm 1993 đến năm 1998, Bộ môn Dược lâm sàng đầu tiên được thành lập tại trường Đại học Dược Hà Nội và sau đó tại trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (1999).Đây chính là thời điểm đánh dấu bắt đầu triển khai đào tạo dược lâm sàng trong đại học và sau đại học, từng bước nâng cao năng lực cán bộ để triển khai hoạt động dược lâm sàng tại các cơ sở thực hành[4]. Tuy nhiên, cho tới nay chương trình giáo dục Dược tại Việt Nam vẫn còn nặng về nghiên cứu sản xuất, bào chế thuốc nhiều hơn, đào tạo dược lâm sàng vẫn chưa nhận được sự quan tâm đầy đủ. So với Pháp, Anh, Mỹ thì Việt Nam có sự đa dạng hơn
và bất đồng hơn về các loại bằng dược sỹ, trong đó có thể kể ra như: bằng sơ cấp dược, bằng trung cấp dược, bằng đại học dược, thạc sỹ dược và tiến sỹ dược học;ngoài ra còn có hệ văn bằng 2, hệ chuyên tu, cử tuyển[86]…Vào năm 2011, một cuộc khảo sát quốc gia về công tác dược lâm sàng đã được thực hiện ở các bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh trên toàn quốc. Cuộc khảo sát được thực hiện bởi trường Đại học Dược Hà Nội và Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization – WHO) nhằm làm cơ sở cho các cơ quan chính phủ ban hành chính sách tiếp tục phát triển ngành dược lâm sàng trong toàn quốc. Kết quả của cuộc khảo sát cho thấy 47,4% các bệnh viện được khảo sát có triển khai công tác dược lâm sàng, tức là có dược sỹ phụ trách công tác dược lâm sàng, nhưng hầu hết là kiêm nhiệm và chỉ giành một phần nhỏ thời gian cho công tác này.Số lượng nhân viên khoa dược và số lượng dược sỹ tính trên mỗi 100 giường bệnh tương ứng là 5,3 ± 1,9 và 1,4 ± 1,0.Trong số 137 dược sỹ đảm nhận trách nhiệm dược lâm sàng, gần 40% trong số họ không hề được đào tạo theo định hướng dược lâm sàng ở trường đại học và chỉ 58% trong số đó đã tham gia vào khóa đào tạo dược lâm sàng liên tục[86]. Như vậy, với kết quả khảo sát này, chúng ta có thể nhận thấy rò ràng là dược lâm sàng tại Việt Nam còn yếu kém nhiều so với thế giới và cần có thêm những chính sách, hoạch định và đầu tư phát triển cho công tác này.
Vào ngày 20/12/2012 Bộ Y tế chính thức ban hành thông tư 31/2012/TT- BYT: ―Hướng dẫn hoạt động dược lâm sàng trong bệnh viện‖, trong đó có quy định cụ thể nhiệm vụ của dược sĩ lâm sàng tại khoa lâm sàng.Đây là cơ sở pháp lý quan trọng làm căn cứ để tiếp tục triển khai và phát triển công tác dược lâm sàng đảm bảo chất lượng và hệ thống hơn nữa.
1.1.3 Can thiệp dược lâm sàng - khái niệm, hình thức triển khai và hiệu quả đạt được
1.1.3.1 Khái niệm
Trong mục tiêu chung hướng vào sử dụng thuốc chất lượng, hoạt động can thiệp dược lâm sàng là một trong những hoạt động thường quy được thực hiện bởi dược sỹ lâm sàng[65]:―Can thiệp dược lâm sàng là hoạt động chuyên môn của dược sỹ lâm sàng nhằm nâng cao chất lượng sử dụng thuốc dựa trên việc đưa ra khuyến cáo nhằm thay đổi hành vi kê đơn của bác sỹ”. Một can thiệp dược lâm sàng được thực hiện là quá trình người dược sỹ lâm sàng xác định được vấn đề liên quan đến sử dụng thuốc và tạo lập khuyến cáo để phòng và khắc phục các vấn đề liên quan đến thuốc đã phát hiện được đó.
Ý nghĩa cũng như mục đích của hành động can thiệp dược lâm sàng mang lại cho người bệnh có thể kể ra bao gồm[65]:
- Nâng cao kiểm soát triệu chứng với đáp ứng điều trị;
- Giảm phản ứng phụ liên quan đến sử dụng thuốc;
- Giảm tình trạng cấp cứu và nhập viện do các vấn đề liên quan đến thuốc;
- Nâng cao hiệu quả, giảm tỷ lệ kết hợp không hợp lý trong phối hợp thuốc;
- Nâng cao kiến thức về thuốc và kiến thức về bệnh học;
- Tiết kiệm chi phí điều trị cho người bệnh.
Can thiệp dược lâm sàng được thực hiện nhằm vào mục tiêu chăm sóc sức khỏe toàn diện cho người bệnh hơn là chỉ tập trung vào riêng vấn đề điều trị thuốc.Nhiệm vụ này đặt ra yêu cầu người dược sỹ lâm sàng phải thu thập thông tin, phân tích thông tin, lên kế hoạch hành động, thực hiện can thiệp và ghi chép hoạt động can thiệp phù hợp (hình 1.1).
Nghiên cứu các quy trình chuẩn liên quan
Xác định các vấn đề liên quan đến thuốc (DRPs)
Thực hiện can thiệp
Hệ thống hóa dữ liệu
Theo dòi can thiệp
Hoàn tất can thiệp
(hoạt động can thiệp & hệ thống hóa dữ liệu)
Hình 1.1:Sơ đồ tổng quan về can thiệp dượclâm sàng[65]
Do đó, để can thiệp dược lâm sàng được thực hiện hiệu quả, dược sỹ lâm sàng cần đáp ứng các yêu cầu sau[65]: (1) tất cả các dược sỹ lâm sàng phải được đào tạo một cách bài bản về quá trình can thiệp dược lâm sàng; (2) cung cấp thông tin về can thiệp dược lâm sàng cho toàn thể cán bộ nhân viên; (3) lượng giá ảnh hưởng của can thiệp dược lâm sàng với toàn thể cán bộ nhân viên và tiến trình công việc; (4) lượng giá thời gian và nguồn nhân lực có thể triển khai hoạt động can thiệp dược lâm sàng song song với các chức năng, nhiệm vụ khác đã được quy định cho dược sỹ lâm sàng; (5) đảm bảo sử dụng hệ thống ghi chép và lưu trữ thông tin phù hợp; (6) xác định nguồn tra cứu, tham khảo phù hợp với điều kiện cụ thể; (7) giáo dục người bệnh rằng đây là hoạt động chuyên môn được thực hiện bởi dược sỹ.
1.1.3.2 Hiệu quả đạt được và các hình thức can thiệp áp dụng
Thực hành dược lâm sàng và các hoạt động can thiệp dược lâm sàng trên thế giới từ lâu đã được chứng minh là hoạt động giúp nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người bệnh. Về khía cạnh lâm sàng, một số lợi điểm cụ thể mang lại từ hoạt động này có thể kể ra như : 1/nâng cao chất lượng kê đơn và giám sát điều trị giúp giảm thời gian nằm viện, giảm các biến chứng và tỷ lệ tử vong [15], [43];2/tham gia vào vòng tư vấn sử dụng thuốc giúp giảm tần suất xuất hiện phản ứng cho hại liên quan đến thuốc và các lỗi trong sử dụng thuốc;nâng cao hiểu biết của người bệnh về những thuốc mà họ sử dụng qua đó tăng tuân thủ điều trị của người bệnh[41], [75],[87]. Bên cạnh đó, về khía cạnh kinh tế, ACCPcũng đã thường xuyên thực hiện các nghiên cứu đánh giá mặt lợi ích này do hoạt động dược lâm sàng mang lại. Nghiên cứu gần đây nhấtdo tổ chức này thực hiện với quy mô lớn trên toàn thế giới (Mỹ, Châu Âu, Úc, Canada và một số nước châu Á) đã công bố kết quảvào năm 2008 cho thấy lợi ích rò ràng về mặt kinh tế do công tác dược lâm sàng bệnh việnmang lại[63]. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu khác cũng được thực hiện và thu được kết quả tương tựchứng minh rằng hoạt động dược lâm sàng giúp tiết kiệm chi phí điều trị[15], [31],[39], [42].
Trên thế giới, để triển khai hoạt động dược lâm sàng, nhiều hình thức can thiệp đã được áp dụng, và thậm chí đã được tiến hành nghiên cứu kiểm nghiệm lại tính hiệu quả của từng loại can thiệp. Vào năm 1999, tổ chức hoạt động công ích quốc tế về y khoa Cochrane Collaboration đã thống kê được 157 nghiên cứu trên thế giới đã được thực hiện để đánh giá ảnh hưởng của can thiệp dược lâm sàng lên hành vi kê đơn của bác sỹ, trong đó 82% nghiên cứu được thực hiện ở Mỹ, còn lại là các nghiên cứu thực hiện ở Canada, Anh, Úc, Mexico, Hà Lan, Bỉ và Pháp.Nghiên cứu cũng thống kê lại các hình thức can thiệp đã được áp
dụngvà tỷ lệ áp dụng tương ứng như: cung cấp tài liệu 28%, hội thảo tập huấn 23%, khảo sát và phản ảnh 17%, nhắc nhở 15%. Còn lại là: viếng thăm có chủ đích 10%, quảng bá 6%, can thiệp thông qua bệnh nhân 1% và can thiệp dựa vào quan điểm nhà lãnh đạo 1%(bảng 1.1).
Bảng 1.1 Phân nhóm các hình thức can thiệp[16]
Hình thức can thiệp | Số CT* | Tỷ lệ % | |
1 | Cung cấp tài liệu (Educational materials): Cung cấp các khuyến cáo cho thực hành lâm sàng, bao gồm các hướng dẫn thực hành dược lâm sàng dưới dạng bản in, tài liệu nghe nhìn hoặc ấn phẩm điện tử | 44 | 28 % |
2 | Hội thảo và tập huấn (Conference and training): Tổ chức các buổi hội nghị, hội thảo, hoặc làm việc nhóm có sự tham gia của các cán bộ y tế. Những buổi làm việc nhóm này có thể diễn ra tại nơi làm việc hoặc trên diễn đàn, trang web của bệnh viện. | 36 | 23 % |
3 | Khảo sát và phản ảnh (Audit and feedback): Dược sỹ lâm sàng tiến hành thu thập thông tin thông qua việc khảo sát hồ sơ bệnh án hoặc qua phỏng vấn người bệnh. Quá trình khảo sát có thể có hoặc không có can thiệp dược lâm sàng. Kết quả thu được sau một thời gian khảo sát nhất định sẽ được phản ảnh tới các cán bộ y tế khác. | 27 | 17 % |
Có thể bạn quan tâm!
- Xác định các vấn đề liên quan đến sử dụng thuốc thông qua hoạt động thực hành dược lâm sàng tại khoa Mũi xoang Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương - 1
- Xác định các vấn đề liên quan đến sử dụng thuốc thông qua hoạt động thực hành dược lâm sàng tại khoa Mũi xoang Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương - 2
- Sơ Đồ Tổngquan Về Những Vấn Đề Liên Quan Đến Thuốc [51]
- Phát Hiện Vấn Đề Liên Quan Đến Sử Dụng Thuốc Trước Can Thiệp
- Thuốc, Nhóm Thuốc Được Sử Dụng Và Tần Suất Sử Dụng
Xem toàn bộ 86 trang tài liệu này.
Viếng thăm có chủ đích (Outreach visits): Viếng thăm nhằm cung cấp thông tin. VD: Thông tin phản ảnh về quá trình cung cấp dịch vụ. Cuộc viếng thăm có thể diễn ra trực tiếp tại phòng làm việc hoặc thực hiện trên trang web của bệnh viện. | 15 | 10 % | |
5 | Nhắc nhở (Reminder): Nhắc nhở trực tiếp hoặc sử dụng công cụ nhắc nhở thông qua máy tính nhằm thúc đẩy và gợi ý cán bộ y tế thực hiện một hành động lâm sàng. | 24 | 15 % |
6 | Quảng bá (Marketing): Sử dụng một buổi phỏng vấn cá nhân, thảo luận nhóm hoặc cuộc khảo sát nhằm vào nhà cung cấp dịch vụ để xác định được rào cản dẫn đến thay đổi hành vi kê đơn, từ đó thiết kế các can thiệp cho phù hợp. | 9 | 6 % |
7 | Can thiệp thông quabệnh nhân (Patient – medicated interventions): Ví dụ cung cấp thông tin tư vấn cho người bệnh hoặc thu thập thông tin lâm sàng thông qua phỏng vấn người bệnh và cung cấp thông tin ấy cho cán bộ y tế. | 1 | 1 % |
8 | Can thiệp dựa vào quan điểm nhà lãnh đạo (Local opinion leader): Can thiệp dựa vào sự ảnh hưởng về quan điểm điều trị của các chuyên gia chăm sóc sức khỏe được tin tưởng và tín nhiệm tới các cán bộ y tế khác. | 1 | 1 % |
Tổng | 157 | 100 |
*CT : Can thiệp
Còn theo một số thông tin mới hơn, có nhiềuhình thức can thiệp khác cũng đã được áp dụng, có thể kể ra bao gồm : Kê đơn bằng máy tính (Computerized Physician Order Entry), Hệ thống bơm tĩnh mạch (Intravenous Systems), Biện pháp giáo dục (Models of Education), Hướng dẫn điều trị (Protocol and Guideline), Dược sỹ tham gia vào tư vấn (Pharmacits Involvement), Công cụ hỗ trợ ra quyết định (Support system for clinical decision making), Thay đổi thời gian biểu làm việc (Changes in work schedules), Thống nhất kê đơn (Medication Reconciliation)[29], [44]. Thậm chí, một số biện pháp can thiệp như hệ thống mã vạch, thay đổi mẫu mã bao bì sản phẩm để tránh nhầm lẫn, hoặc có thể là những ý kiến thúc đẩy xây dựng tiêu chuẩn ghi nhãn cũng được coi là những hình thức can thiệp để nâng cao hiệu quả sử dụng thuốc[56]. Tuy nhiên, y văn đánh giá hiệu quả của các hình thức can thiệp lâm sàng cụ thể cho tới nay vẫncòn nhiều hạn chế và hầu hết các thử nghiệm lâm sàng được thực hiện đều không có nhóm chứng, kết quả thu được cũng khác nhau giữa các nghiên cứu. Ví dụ, ở Mỹ, năm 2006,Frush và cộng sự đã chứng minh được chương trình giáo dục thông qua trang web có thể giảm có ý nghĩa thống kê tổng độ lệch trung bình liều thuốc sử dụng và giảm có ý nghĩa thống kê thời gian dùng thuốc trung bình trên bệnh nhân [32]. Metley và các tác giả khác (2007) chỉ ra rằng quá trình giáo dục đa chiều, trong đó đối tượnggiáo dục bao gồm cả cán bộ y tế và người bệnhđã giúp giảm việc lạm dụng kháng sinh trong điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính tại phòng cấp cứu[50]. Trong khi đó, gần đây (2014), một nghiên cứu khác lạichỉ ra biện pháp áp dụng kê đơn bằng máy tính kết hợp với công cụ hỗ trợ quyết định kê đơn là hình thức can thiệp thành công[29]. Một nghiên cứu khác lại khẳng định:thay đổi thời gian biểu làm việc, biện pháp giáo dục, thống nhất kê đơn và hướng dẫn điều trịlà bốn hình thức can thiệp làm giảm tỷ lệ lỗi trong sử dụng thuốc[44]. Thậm chí, hình thức can thiệp bằng cách kết hợp kê đơn trên máy