dân trả lời, nếu một hộ gia đình chỉ làm trồng trọt cùng lắm là đủ ăn, không thể giàu lên được. Điều tra hộ giàu ở xã Đa Tốn- Gia Lâm- Hà Nội có cơ cấu thu nhập như sau: 25,2% từ trồng trọt; 63,9% từ chăn nuôi và 4,8% đi làm thuê. Ngược lại hộ nghèo thường có cơ cấu thu nhập: 64,14% từ trồng trọt; 34,65% từ chăn nuôi, còn hộ rất giàu là hộ làm ngành nghề (gốm, sứ) thường có mức thu nhập bình quân/ người/ tháng cao gấp 6 lần hộ nghèo nói trên thì cơ cấu thu nhập như sau: 4,2% từ trồng trọt; 6,22% từ chăn nuôi và 88,93% từ gốm sứ.
Thực trạng việc làm của lao động nông thôn ở nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều yếu kém là do nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là các nguyên nhân cơ bản sau:
Một là: Nông thôn Việt nam vẫn ở trong tình trạng lạc hậu, chậm phát triển, lại có điểm xuất phát thấp, thiếu nhiều điều kiện và tiền đề để thay đổi nhanh cơ cấu kinh tế và chuyển dịch lao động phù hợp với nền kinh tế thị trường, đặc biệt là cơ sở hạ tầng, vốn và công nghệ thích hợp sử dụng nhiều lao động, dân số gia tăng nhanh làm cho nguồn lao động ngày càng đông, có nhiều tiềm năng về đất đai và nguồn lực chưa được khai thác triệt để nhằm tạo nhiều việc làm cho người lao động.
Hai là: các chính sách vĩ mô của Nhà nước góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, các chính sách chưa thật đồng bộ, chưa theo sát những thay đổi của thực tiễn nên chưa thực sự khuyến khích các lĩnh vực, ngành nghề và hình thức thu hút nhiều lao động theo nhu cầu của thị trường lao động, chưa khuyến khích được người có vốn, đặc biệt là những người ở thành phố, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào phát triển việc làm và kinh tế nông thôn.
Ba là: Vấn đề dạy nghề, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn hiện nay rất thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Vấn đề chuyển giao công nghệ vào nông thôn, hướng dẫn nông dân cách tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả còn rất hạn chế, đặc biệt là dạy
nghề và chuyển giao công nghệ sử dụng nhiều lao động ở nông thôn để gia tăng việc làm phi nông nghiệp cũng như công nghệ sinh học, khai thác tiềm năng môi trường sinh thái, nguồn lợi đặc sản có giá trị kinh tế cao.
Như vậy, từ thực trạng việc làm và xu hướng vận động của lao động nông thôn Việt Nam những năm qua cho thấy. Bên cạnh những tiến bộ về nhiều mặt đã đạt được còn không ít khó khăn, thách thức. Đó cũng là cơ sở để khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục đi sâu nhiên cứu để có những đánh giá đầy đủ, cụ thể hơn làm căn cứ thực tiễn cho việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống các cơ chế, chính sách và giải pháp cũng như cho công tác quản lý, điều hành, tổ chức triển khai trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn những năm tới.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN
3.1. Chiến lược phát triển nông thôn từ năm 2001 đến năm 2010 và vấn đề việc làm
Có thể bạn quan tâm!
- Việc Làm Trong Lĩnh Vực Phi Nông Nghiệp
- Chính Sách Của Nhà Nước Và Các Chương Trình Quốc Gia Giải Quyết Việc Làm Ở Nông Thôn
- Đánh Giá Chung Về Việc Làm Và Tạo Việc Làm Ở Nông Thôn Nước Ta Hiện Nay
- Những Giải Pháp Chủ Yếu Nhằm Giải Quyết Việc Làm Cho Lao Động Nông Thôn Ở Nước Ta Trong Thời Gian Tới
- Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Cho Nông Thôn
- Việc làm ở nông thôn Việt Nam hiện nay - 12
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
Chiến lược phát triển nông nghiệp - nông thôn trong giai đoạn tới là phát huy mọi nguồn nội lực trong nông nghiệp - nông thôn; tăng cường đầu tư của Nhà nước và tranh thủ sự hợp tác quốc tế để phát triển nông nghiệp, nông thôn; coi đó là cơ sở vững chắc cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để tiến hành CNH- HĐH kinh tế quốc dân, cụ thể như sau:
* Chuyển đổi mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
- Về nông nghiệp
Chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH- HĐH để phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn.
Dự kiến tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp thời kỳ 2001 - 2010 (bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp) bình quân khoảng 4%/năm, cơ cấu kinh tế nông thôn sẽ thay đổi từ 70/30 hiện nay (nông nghiệp/phi nông nghiệp) thành 40/60 hoặc 35/65 vào năm 2010. Đẩy mạnh phát triển cả trồng trọt và chăn nuôi theo hướng đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đa dạng hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Dự kiến cơ cấu giá trị nông nghiệp đến năm 2010 như sau; cây lương thực 35%, tốc độ tăng trưởng bình quân từ 1,8- 2,1%/năm; cây khác 35%, tốc độ tăng trưởng bình quân 5- 6%/năm; chăn nuôi 30%, tổng giá trị sản lượng ngành nông nghiệp (năm 2010) tốc độ phát triển của ngành bình quân 6- 8% [11].
- Về lâm nghiệp
Đây là vấn đề thuộc môi trường, sinh thái, là việc bảo vệ tài nguyên cho các thế hệ tương lai, là nơi tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho cộng đồng
dân cư sống trong vùng rừng, bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của xã hội đối với các sản phẩm nghề rừng.
- Đối với rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, lấy khoanh nuôi bảo vệ tái sinh là chính, chỉ trồng mới ở những nơi không thể tái sinh được.
- Đối với rừng sản xuất, tiến hành giao đất cho các hộ dân trong vùng để họ tự sản xuất kinh doanh, chọn loại cây trồng phù hợp.
Quốc hội đã phê chuẩn Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng (1998 - 2010), trong đó 2 triệu ha rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và 3 triệu ha rừng sản xuất. Nhà nước cấp vốn đầu tư để bảo vệ, phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Đối với rừng sản xuất sẽ do dân đầu tư, Nhà nước chủ yếu giúp họ về công tác khuyến nông, khuyến lâm, hỗ trợ cho vay vốn ở mức cần thiết.
- Về thuỷ sản
Phát triển khai thác hải sản xa bờ và điều chỉnh nghề cá ven bờ theo hướng hợp lý, bền vững. Xây dựng đồng bộ công nghiệp khai thác cả về đội tàu, cảng , bến cá, đóng và sửa chữa tàu thuyền, dệt lưới, dịch vụ hậu cần, an toàn trên biển.
Xây dựng vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung, nhất là nuôi ven biển. Mở rộng diện tích nuôi vùng ven biển. Nghiên cứu và du nhập công nghệ mới, tạo bộ giống nuôi chất lượng cao.
- Về tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ , du lịch.
Mở rộng quy mô và số lượng làng nghề, dự kiến từ nay đến năm 2010 sẽ xây dựng thêm khoảng 1000 làng nghề mới.
Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu tại chỗ để tạo việc làm và thu nhập cho dân cư nông thôn, như công nghiệp dệt, may, vật liệu xây dựng, sành, sứ, cơ khí.
Đẩy mạnh phát triển du lịch nông thôn khai thác tốt các tiềm năng du lịch hiện có, bằng nhiều giải pháp đồng bộ và năng động nhằm thu hút được
nhiều khách du lịch trong và ngoài nưóc tới các điểm du lịch tham quan, nghỉ dưỡng.
* Phát triển khoa học - công nghệ
Sự phát triển của nông nghiệp và kinh tế nông thôn phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển và sự chuyênr giao kỹ thuật công nghệ. Đứng trước yêu cầu hội nhập kinh tế với thế giới, sự cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Vì vậy, trong thời gian tới cần phát triển công nghệ với sự kết hợp nhiều trình độ, nhiều quy mô, sử dụng triệt để những thành tựu công nghệ trong nước, công nghệ truyền thống. Song phải khai thác kịp thời công nghệ tiên tiến của nước ngoài phù hợp với điều kiện Việt Nam; kết hợp hài hoà giữa công nghệ tăng năng suất đất đai và công nghệ tăng năng suất lao động.
Tập trung nghiên cứu các giải pháp nâng cao năng suất, chất lượng các lọai nông, lâm, thuỷ sản làm nguyên liệu cho công nghiệp. Chú trọng công nghệ sinh học. Khuyến khích nhập khẩu công nghệ để tạo nguồn cung cấp công nghệ trực tiếp đến người sử dụng, nhất là máy móc thiết bị có hàm lượng cao về công nghệ mới và máy móc thiết bị chế biến nhỏ ở nông thôn.
* Giải quyết các vấn đề về đời sống xã hội nông thôn
- Chương trình giải quyết việc làm
Chính phủ đã phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001- 2005". Mục tiêu của chương trình về vấn đề việc làm là giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị, nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, bảo đảm việc làm cho người có nhu cầu làm việc. Mỗi năm tạo việc làm cho 1,4 - 1,5 triệu lao động; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống dưới 6% và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80% vào năm 2005 [11]. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để tạo việc làm (tổ chức cho vay vốn các dự án nhỏ giải quyết việc làm, nâng cao năng lực các trung tâm dịch vụ việc làm, xây dựng hệ
thống thông tin thị trường lao động....). Đồng thời phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia.
- Chương trình xoá đói giảm nghèo
Mục tiêu tổng quát của "Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm gia đoạn 2001- 2005" về vấn đề xoá đói giảm nghèo là tạo các điều kiện thuận lợi để hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, tiếp cận các dịch vụ xã hội, xoá đói giảm nghèo.
Mục tiêu cụ thể là giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn) xuống dưới 10%, bình quân mỗi năm giảm khoảng 28 vạn đến 30 vạn hộ, không để tái đói kinh niên, đảm bảo các xã nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu (thuỷ lợi nhỏ, trường học, trạm y tế, chợ, điện, nước sinh hoạt...)
- Y tế - giáo dục
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001- 2010. Với mục tiêu chung là: phấn đấu để mọi người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Đối với khu vực nông thôn bảo đảm 100% số xã có trạm y tế phù hợp với điều kiện kinh tế, địa lý và nhu cầu khám chữa bệnh của từng vùng.
Đến năm 2005 đạt 100% phòng khám đa khoa khu vực cụm liên xã ở vùng núi, vùng sâu, được xây dựng kiên cố và có bác sĩ.
Đến năm 2010; 80% số xã có bác sĩ, 80% số trạm y tế xã có nữ hộ sinh trung học, các trạm y tế đều có cán bộ với trình độ dược tá phụ trách công tác dược. Giảm tỷ lệ mắc tử vong các bệnh truyền nhiễm gây dịch. Duy trì kết quả thanh toán bệnh bại liệt, uốn ván sơ sinh....
Đối với giáo dục; tập trung xoá mù chữ cho người lớn và phổ cập giáo dục tiểu học cho trẻ em, tiến tới phổ cập giáo dục THCS, đến năm 2010 có 97% số người từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết.
Sửa chữa , nâng cấp, xây dựng mới các trường học, thiết bị giảng dạy để đảm bảo đủ trường lớp cho các cháu học tập, xoá bỏ tình trạng học ca 3.
Mở rộng các loại hình giáo dục, đào tạo phù hợp với từng địa phương.
Mở các lớp đào tạo ngắn hạn cho lao động nông thôn về áp dụng các thành tựu khoa học- công nghệ để thâm canh cây trồng và vật nuôi, phát triển kinh tế VAC, chế biến nông, lâm, thuỷ sản và nâng cao kiến thức quản lý.
Có chính sách cấp học bổng để con em nông dân nghèo được theo học ở các trường đào tạo của Nhà nước và tư nhân. Đến năm 2010, tỷ lệ lao động được đào tạo khoảng 35- 40%.
- Văn hoá xã hội nông thôn
Xây dựng nếp sống văn hoá mới, nông thôn văn minh hiện đại là nông thôn có kinh tế phát triển, quan hệ sản xuất phù hợp, có cơ cấu kinh tế hợp lý, mọi người đều có việc làm, có thu nhập và đời sống cao, văn hoá khoa học phát triển, giáo dục, y tế, sức khoẻ được đảm bảo. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giữ gìn tình làng nghĩa xóm, thương yêu, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần "lá lành đùm lá rách". Thực hiện dân chủ xã hội ở nông thôn, công bằng đoàn kết, an ninh trật tự an toàn xã hội.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn
Tiếp tục ưu tiên đầu tư thuỷ lợi để tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển. Đến năm 2010 đảm bảo năng lực tưới tiêu khoảng 7 triệu ha gieo trồng lúa và khoảng 1,5 triệu ha rau màu, cây công nghiệp và nước sinh hoạt đô thị, kết hợp đồng bộ giữa nhu cầu nước cho nông nghiệp và phi nông nghiệp, cho cây lúa và các cây khác. Tu sửa và nâng cấp đường giao thông nông thôn hiện có, đưa tỷ lệ đường rải nhựa đến năm 2010 đạt trên 50%. Mở rộng mạng lưới cung cấp điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Phấn đấu đến năm 2010 nâng tỷ lệ số hộ dùng điện lên trên 90%, ưu tiên phát triển các dự án thuỷ điện nhỏ 0,5- 1,5 kw cho các khu vực dân cư miền núi. Phát triển đa dạng các loại hình cấp nước sinh hoạt nông thôn, phấn đấu đến năm 2005 có 60% dân số nông
thôn có nước sạch để dùng cho sinh hoạt. Đồng thời, phải đẩy mạnh hình thành thị trấn, thị tứ, đô thị mới ở nông thôn theo hướng thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển theo hướng CNH - HĐH.
Như vậy, chiến lược phát triển nông thôn đã tạo những điều kiện và đặt ra những yêu cầu với giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn những năm tới là:
Các chính sách về kinh tế và các chính sách về xã hội phải đặt nhiệm vụ trọng tâm số một là vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Tiếp tục khuyến khích mọi thành phần kinh tế cùng tham gia tạo việc làm cho xã hội, trong đó chú trọng người lao động được quyền chủ động và sáng tạo tự tìm kiếm và tự tạo thêm việc làm mới trên cơ sở tận dụng các tiềm năng đất đai, mặt nước và điều kiện sinh thái sẵn có, không ngừng đa dạng hoá các hoạt động kinh tế tại chỗ, các hình thức hợp tác giữa người lao động, giữa các tổ chức sản xuất kinh doanh với nhau, mở rộng sản xuất và tạo ra việc làm mới. Đa dạng hoá trong sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp sang các loại cây trồng, vật nuôi vừa cho sản phẩm có giá trị cao vừa thu hút nhiều lao động tại chỗ, mặt khác đẩy mạnh phát triển các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn bao gồm các hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ sản xuất, đời sống ở nông thôn.
3.2. Một số quan điểm giải quyết việc làm ở nông thôn
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, sức ép về việc làm còn rất lớn. Theo dự kiến, số lượng lao động vẫn tiếp tục gia tăng. Trong khi đó khả năng tạo việc làm của khu vực nông thôn là có hạn. Sự tồn tại của khu vực nông thôn là lâu dài, nhìn chung phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức và tác động của con người ảnh hưởng to lớn đến khu vực kinh tế này trong tương lai. Do đó, trong thời gian tới vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn cần được nhận thức, đặt đúng tầm quan trọng và ý nghĩa xã hội của nó, cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần thay đổi nhận thức về hàng hoá sức lao động trong nền kinh tế thị trường, giải phóng triệt để mọi nguồn lực về đất đai, lao động,