Văn hóa và con người tây nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945- 2000 - 14


đôi mắt. Đối với người Kinh, “mắt em là một dòng sông”, thì đôi mắt của người Tây Nguyên là một dòng suối trong veo hay một cánh rừng hun hút và hoang dại. Đã có rất nhiều tác giả ca ngợi đôi mắt này: “Cặp mắt trong veo như mắt nai con vẫn quanh quẩn ăn lá trong khu rừng cạnh con suối Ea Pok”[20, tr.182], “Con gái làng Trấp ngực căng tròn như trái núi, mắt trong veo như nước suối đầu nguồn”[34, tr. 245], “Ngồi trước mặt là một cô gái Thượng dịu dàng với đôi mắt long lanh đen sáng”[12, tr.175]…Nếu nói tâm hồn người Tây Nguyên trong như nước suối thì điều đó biểu hiện cụ thể nhất là ở đôi mắt.

Cái đẹp của cô gái Tây Nguyên không phải là cái đẹp của những kiều nữ “êm đềm trướng rủ màn che” mà là cái đẹp của người lao động, mang theo giá trị lao động: “Cô gái đẹp nhất trong làng…Ví với con chim màu sắc sặc sỡ bay lượn trên nhà rông chăng? Không, cô gái trong bài hát còn êm dịu hơn, đằm thắm hơn. Ví như con cá đẹp bơi lội trong dòng Krông Năng chăng? Không, cô gái trong bài hát còn giỏi giang hơn, làm rẫy giỏi, nuôi cha mẹ tốt, được người làng thương hơn…”[30, tr. 322]. Các cô gái đẹp ở Tây Nguyên đều là những cô gái hát hay và lao động giỏi; trong chiến đấu thì thêm phẩm chất anh hùng, trong hòa bình là yêu thương chăm sóc cha mẹ, luôn hết mình với cộng đồng. Liêu trong Đất nước đứng lên, Mai trong Rừng xà nu, Cô gái Tơtrá trong Tháng Ninh Nông, Nèn trong Kỷ niệm Tây Nguyên của Nguyên Ngọc; Hơ Giang trong Hơ Giang của Y Điêng; Ksor H’Gươnl trong Cánh rừng tình yêu của Trung Trung Đỉnh, Kơ Nhí trong Pui Kơ Lớ của Khuất Quang Thụy v.v…đều là những cô gái như vậy.

Vẻ đẹp thiên nhiên làm nên chất thơ cho cuộc sống, vẻ đẹp của người phụ nữ làm nên chất men cho cuộc đời. Núi rừng Tây Nguyên là bài ca bất tận của sự sống. Cô gái Tây Nguyên là âm thanh réo rắt, dìu dặt trong bài ca ấy. Các cô gái Tây Nguyên là bóng cây Kơnia mát rượi giữa nắng gió cao nguyên, là những đóa Pơlang tươi thắm giữa buôn làng.


Nếu phụ nữ Tây Nguyên là cây Kơnia, cây Pơ lang thì đàn ông Tây Nguyên cây Lim, cây Trắc, dù hơi thô mộc nhưng càng chạm vào ta càng thấy sáng. Nhìn vào người đàn ông Tây Nguyên ta thường hình dung đến những người dũng sĩ Hy Lạp. Đó là những con người như được chắt ra từ núi đá cây rừng, có thân hình vạm vỡ, chắc nịch, khuôn ngực rộng, nước da nâu bóng, khuôn mặt đầy vẻ cương nghị, mắt sáng rực, mũi cao, cơ bắp cuồn cuộn, tràn đầy sức sống như Núp, Bok Pa trong Đất nước đứng lên; Tnú, cụ Mết trong Rừng xà nu; Kơ Lơng, cụ Xớt trong Người dũng sĩ dưới chân núi Chư Pông; Y Kơbin, Y Khung trong Kỷ niệm Tây Nguyên; Kbin trong Mùa xuân hoa trắng của Nguyên Ngọc; già Kôi trong Người buôn Rê Băk của Khuất Quang Thụy; Rook và Seek trong Truyền thuyết Ialy của Trung Trung Đỉnh v.v…Núp có thân hình “vạm vỡ, mắt sáng nhìn như chọc vào bóng tối, bàn tay gân guốc đưa lên đưa xuống chắc chắn mạnh như hòn đá ném xuống nước”[26, tr.271]. Bok Pa thì “con mắt như lưỡi mác dài, giọng nói như con cọp già”[26, tr.408]. Cụ Mết “vẫn quắc thướt như xưa, râu bây giờ dài đã tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng, ngực căng như một cây xà nu lớn, sáu mươi tuổi rồi mà tiếng nói vẫn ồ ồ, dội vang trong lồng ngực”[26, tr.139]. Tnú có “tấm lưng rộng và những vết thương ngang dọc, hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc”[26, tr152]. Kơ Lơng thì có “đôi mắt đục mà rất sắc của tất cả những người thanh niên Tây Nguyên. Vầng tráng anh rộng và bằng, bình tĩnh và kiên định”[30, tr.247]. Cụ Xớt “đã ngoài tám mươi mà lưng vẫn đứng thẳng, cả người quắc thước như một ngọn núi đá”[30, tr.248]. Già Kôi “có mái tóc trắng như mây và giọng nói vang như chiêng, bộ ngực đen bóng như đồng hun”[34, tr.73]…Một vài nét phác họa chân dung người đàn ông Tây Nguyên ta cũng thấy hiện lên những con người là hậu duệ của Đăm San, Đăm Noi, Khinh Dú… Sống trong môi trường rừng núi đòi hỏi con người Tây Nguyên phải có một sức lực dồi dào, một khí chất mạnh mẽ để


có thể đối chọi với hiểm nguy luôn rình rập. Chân đất, da trần cũng giúp họ hấp thụ rất nhiều nguồn năng lượng của vũ trụ. Cho nên nhìn vào người đàn ông Tây Nguyên, người ta có cảm giác ấm áp và tin tưởng.

Văn chương luôn có nhu cầu khám phá vẻ đẹp của con người ở phương diện cá nhân cũng như cộng đồng. Do tính chất phi vật thể nên hình tượng văn học tác động vào trí tưởng tượng và liên tưởng của người đọc, người đọc chỉ cảm nhận thông qua trí tưởng tượng, mà cái đẹp trong trí tưởng tượng bao giờ cũng đẹp hơn trong hiện thực. Nói như thế không có nghĩa là con người trong hiện thực và hình tượng nhân vật quá cách xa nhau. Sự gần gũi này càng rõ hơn khi chúng ta trực tiếp quan sát người Tây Nguyên. Cái đẹp con người của các dân tộc văn minh mang dấu ấn của sự tiến hóa, cái đẹp của con người Tây Nguyên là cái đẹp đầy hồn nhiên, tự nhiên. Các cô gái Tây Nguyên như dòng sông, con suối trong lành và mát rượi. Các chàng trai Tây Nguyên như ngọn núi, tảng đá rắn chắc và vũng chãi. Họ mang theo vẻ đẹp của núi rừng Tây Nguyên.

2.3 Con người nhân ái, nghĩa tình

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 222 trang tài liệu này.

Vẻ đẹp hình thức của con người chẳng có nghĩa lý gì khi bản chất không tương ứng với nó. Chỉ có cái đẹp bên trong mới tô điểm cho cái đẹp bên ngoài. Các tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên đã đem đến cho người đọc những cảm nhận về vẻ đẹp hình thức của người Tây Nguyên, đó là một điều cần thiết. Song, cái quan trọng là thông qua vẻ đẹp hình thức đó, các nhà văn đã khẳng định phẩm chất cao quí của con người Tây Nguyên. Qua những trang văn thấm đẫm chất sử thi, con người Tây Nguyên hiện lên với những nét tính cách tốt đẹp nhất và mang giá trị như những tấm gương của cuộc đời. Những tấm gương được làm nên từ cuộc sống nguyên sơ của núi rừng.

Do văn chương có nhiệm vụ làm cho con người được “người” hơn, nên bất cứ ở đâu, chủ nghĩa nhân đạo vẫn được xem là nội dung hàng đầu của một

Văn hóa và con người tây nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945- 2000 - 14


tác phẩm. Nói như thế để thấy rằng không phải chỉ có con người Tây Nguyên mới nhân ái nghĩa tình, nhưng phải thừa nhận rằng, nhân nghĩa là đặc điểm nổi bật trong đời sống Tây Nguyên. Điều dễ nhận thấy nhất ở con người Tây Nguyên là tình cảm mộc mạc và chân thành, dẫu nghèo về vật chất nhưng không nghèo lòng nhân ái. Với một nền văn hóa phong phú và đậm tính nhân văn, với môi trường tự nhiên trong lành và môi trường xã hội cộng đồng đã tạo nên cho con người Tây Nguyên một nhân sinh quan tốt đẹp, một lối sống luôn lấy chữ nhân làm đầu. Cái chữ nhân mang đậm tính hồn nhiên chứ không hề pha tạp sự tính toán như biểu hiện của một số dân tộc phát triển. Đối với người Tây Nguyên, tình cảm cộng đồng là tình cảm lớn nhất. Thước đo phẩm chất quan trọng của con người Tây Nguyên chính là ở chỗ họ ứng xử với cộng đồng như thế nào. Do tính cộng đồng cao và sự phân biệt giàu nghèo, sang hèn chưa lớn lắm nên người Tây Nguyên sẵn sàng đặt quyền lợi cộng đồng lên trên quyền lợi cá nhân.

Lòng nhân ái của con người biểu hiện rõ nhất là khi cuộc sống có sự biến động nào đó. Sự biến động càng lớn thì tính cách, phẩm chất con người càng bộc lộ rõ. Trong công cuộc đấu tranh sinh tồn với các bộ lạc khác, đặc biệt là ở hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ vừa qua, con người Tây Nguyên đã bộc lộ toàn bộ vẻ đẹp bên trong của mình. Và người đọc thông qua đó, đã cảm nhận, hiểu, yêu mến và trân trọng những con người gắn bó với núi rừng. Do các nhà văn đã từng sống và chiến đấu cùng người dân Tây Nguyên nên tác phẩm của họ mang giá trị hiện thực cao. Trong bức tranh tả thực ấy, con người Tây Nguyên hiện lên rạng ngời về lòng nhân ái.

Lòng nhân ái của con người Tây Nguyên thể hiện đẹp đẽ nhất ở hình tượng anh hùng Núp trong tác phẩm Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc. Hoàn cảnh ngặt nghèo của cuộc chiến không cân sức ở làng Kông Hoa là một sự thử thách lớn lao ý chí cũng như tình cảm của những người tiên phong như


Núp. Và chất ngọc trong trái tim anh ngày càng sáng chói. Dù vô vàn khó khăn, thậm chí có lúc tuyệt vọng, tình cảm của Núp vẫn luôn hướng về lũ làng với tất cả sự yêu thương gắn bó. Núp luôn là người “đứng mũi” trong mọi công việc của làng: “Lũ làng có ai đau, Núp trước tiên đi vô rừng hái cái lá tốt về cho uống mau lành; lũ làng có ai chết, Núp trước tiên đi vô núi tìm cái cây to về làm hòm”[26, tr. 224]. Tình thương của Núp dành cho lũ làng như dành cho người ruột thịt, anh nói với vợ: “Liêu ạ, tôi thương lũ làng như thương Liêu, thương mẹ, thương Hờ Ru. Tôi cũng thương mẹ, thương Liêu, thương Hơ Ru như thương lũ làng”[26, tr. 348]. Người Tây Nguyên xưa không biết nói dối lòng mình. Trong lúc cái đói đã cận kề do sự bao vây của kẻ thù và do hạn hán gây ra, Núp vẫn về bảo vợ lấy gạo đem cho Ghíp. Núp nói: “Phải cho Ghíp ăn, đói hung rồi...Mai mốt tôi vô rừng đào củ mài, bẻ rau ăn cũng được”[26, tr. 293-294]. Sự san sẻ của Núp không phải chỉ do yêu cầu của cách mạng, quan trọng hơn nó xuất phát từ tình cảm buôn làng, từ lối sống nghĩa tình được hình thành từ ngàn đời nay và nó đã trở thành đạo lý truyền thống của người Tây Nguyên. Bởi vậy anh sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân, gia đình để giúp đỡ dân làng. Tình cảm ấy càng đẹp đẽ hơn khi cả mẹ anh, vợ anh đều sẵn sàng chịu đói để nhường gạo cho dân làng. Tiếp theo hành động của Núp, những đứa trẻ mồ côi đều được dân làng cưu mang: thằng Lu con anh Nhinh được bok Pa nhận nuôi, con Tuy con anh Công thì được bok Sring đùm bọc...Truyền thống thương người tốt đẹp của dân tộc được Núp khơi dậy và lan tỏa mạnh mẽ, nó như hoa rừng làm dịu mát cả không gian nóng bức của sự gian khổ ở làng Kông Hoa trong những ngày đánh Pháp.

Không phải chỉ có những con người có tinh thần “lá lành đùm lá rách” ở làng Kông Hoa, Y Kơ Bin trong Kỷ niệm Tây Nguyên cũng “lớn lên không có mẹ. Một ông cụ đem anh về nuôi ở nhà rẫy”[30, tr. 321]. Và Y Kơ Bin lớn lên trong sự san sẻ của dân làng. Kpa Kơ Lơng trong Người dũng sĩ dưới chân núi


Chư Pông cha mất sớm, anh được cụ Xớt, anh Bờ Lang dìu dắt từng bước, giúp anh trở thành người du kích nổi tiếng ở Tây Nguyên. Tnú trong Rừng xà nu ngay từ nhỏ đã không còn cha mẹ, anh lớn lên trong sự đùm bọc cưu mang của dân làng: “Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô man này nuôi nó”[26, tr. 146]. Tình cảm buôn làng dịu ngọt như nước suối đã dưỡng nuôi tâm hồn của Tnú để rồi khi lớn lên, dù đi đâu anh vẫn hướng về buôn làng bằng một tình cảm thiết tha. Tnú đã giết chết kẻ thù bằng sức mạnh được xây dựng từ những tình cảm nhân ái, bao dung của dân làng dành cho anh. Nhưng chúng ta cũng nhận thấy một điều rằng, những biểu hiện của lối sống mình vì mọi người ấy không phải chỉ có ở văn xuôi Tây Nguyên mà nó còn hiện diện trong rất nhiều tác phẩm văn học cách mạng 1945-1975 như Hòn Đất của Anh Đức, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Sống như Anh của Trần Đình Vân, Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi v.v...Đây là đặc điểm của con người cách mạng trong văn học giai đoạn này. Vậy thì nét riêng của người Tây Nguyên là gì?

Không chỉ trong chiến tranh người ta mới tựa lưng vào nhau, trong cuộc sống bình thường người Tây Nguyên cũng đối xử với nhau rất đẹp: “Cộng đồng làng đói cùng đói, no cùng no. Không bao giờ có chuyện riêng ai chết đói. Có chết thì cùng chết cả làng” [39, tr. 6]. Trong mùa giáp hạt, điều này càng rõ hơn bao giờ hết, họ cùng nhau sẻ chia từng củ mài, từng trái cây hái được trong rừng. Nếu trong khổ đau dân làng cùng sẻ chia với nhau thì trong hạnh phúc cả làng cùng hưởng. Những nghi lễ thuộc phạm vi gia đình như lễ cưới, lễ mừng lúa mới, lễ bỏ mả...họ không đi mời các nhà khác như người Kinh mà mọi người tự đem lễ vật tới góp cho gia chủ và cùng vui với gia đình. Một nhà có khách thì dân làng cũng lục tục gùi rượu tới cùng tiếp đãi: “Đã có vài người gùi rượu tới cho H’Piar tiếp khách. Khách quí của H’Piar cũng là khách quí chung của làng. Đó là phong tục”[6, tr. 113]. Ngày thủ lĩnh Fulro K’Breo (Chung


dòng máu đỏ- Pham Kim Anh) bỏ súng trở về, cả buôn Đasapa đón mừng: “Bà con chưng diện những bộ quần áo mới nhất và tề tựu đông đủ. Các bà các cô quần áo sặc sỡ, trịnh trọng trải chiếu bày ra những lễ vật để cúng thần…K’Breo quì xuống, nâng chek rượu cần lên. Những giọt nước mắt sướng vui trào ra và rơi vào chek rượu [39, tr.74-75] v.v…Nét đẹp ấy đã là chất keo kết dính tinh thần cộng đồng.

Điều đáng quí là không phải trong cộng đồng với nhau mới thể hiện tình nghĩa mà ngay cả với người lạ, với tộc người khác, họ vẫn đối xử hết sức nhân ái. Trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, đã có biết bao nhiêu chiến sĩ Cách mạng được dân làng cưu mang trong cơn hoạn nạn. Nhà văn Nguyên Ngọc là một chiến sĩ đã có thời gian dài cùng sống và chiến đấu cùng người Tây Nguyên nên ông hiểu rất rõ tình cảm của dân làng, và ông trân trọng tình cảm này bằng việc xây dựng hàng loạt nhân vật “cán bộ người Kinh” được sống trong tình thương vô bờ của đồng bào. Đa số các làng đều dành cho đê cán bộ những tình cảm vô cùng tốt đẹp. Anh Thế trong Đất nước đứng lên bị ốm là cả làng lo lắng, chăm sóc cho anh như người ruột thịt: “...Bà mẹ bỏ đi rẫy, ngồi miết với anh Thế...Lũ làng mang hột gà tới cho anh Thế để đầy một rổ ở đầu giường. Ban đêm, một thanh niên, một phụ nữ tới ở chung với anh, nói chuyện, hát cho anh Thế khỏi buồn”[26, tr. 418-421]. Anh Quyết trong Rừng xà nu được cả làng Xô Man bảo vệ: “…Bà già, ông già thay thanh niên đi nuôi cán bộ. Nó lại biết. Nó giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng. Sau cùng lũ trẻ thay ông già, bà già...Chúng ở lại luôn ngoài rừng ban đêm. Để cán bộ ngủ một mình ngoài rừng một đêm, bụng dạ không yên được”[26, tr. 148-149]. Trong tác phẩm Tháng Ninh Nông, nhân vật Tôi bị một trận sốt ác tính đến hôn mê, cái chết đã cận kề. Nhưng anh đã được dân làng Mường Hon cưu mang: “Họ cũng đang bị đói và bị giặc đánh tơi tả rồi, ấy vậy mà họ vẫn nuôi chúng tôi, nhịn từng hạt bắp, cọng rau mà nuôi”[228, tr. 168]. Trung Trung Đỉnh cũng


thấu hiểu tình cảm này qua chính cuộc đời chiến đấu hơn mười năm của anh ở Tây Nguyên. Qua tiểu thuyết Lạc rừng được xem như tự truyện của anh, chúng ta cảm nhận thật đậm đà tình cảm của đội du kích và của dân làng Đê Chơ Rang dành cho Bình. Họ yêu thương, quí mến anh bộ đội chính qui miền Bắc như chính người của làng. Truyện ngắn Đêm nguyệt thực là câu chuyện cảm động về tấm lòng bao dung của một ông già Bana đối với anh bộ đội bị thương nặng sau một trận đánh ác liệt. Và chính tấm lòng nhân ái ấy mà anh bộ đội nọ ở lại mãi mãi với buôn làng, trở thành một người Bana chính cống.

Chính tình cảm buôn làng nhân ái là cơ sở để hình thành bản chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, những người Cộng sản đã biết khơi dậy bản chất ấy, phát triển thành tình cảm cách mạng cao đẹp và họ đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của dân tộc. Nhưng cũng có một sự thực đau lòng là, trong số những người được dân làng cưu mang ấy, không ít người khi đã trở thành “ông to” rồi thì quên hẳn, thậm chí quay lưng lại với chính những người đã từng “bẻ từng trái bắp, chia từng củ mì” để nuôi mình: “Có việc thắc mắc phải đi gặp cán bộ huyện để hỏi cho rõ thì khó lắm, phải hết giấy này, cổng kia mới được gặp. Sao thế Thành? Có phải lũ bay bây giờ làm ông to, ông lớn, có xe con, có nhà cao cửa rộng, đèn điện sáng trưng nên quên mất lũ tao rồi không?”[41, tr. 187]. Thực tế này đã làm lung lay niềm tin về sự tốt đẹp của tình người vốn đã trở thành “phong tục” từ ngàn đời nay của người Tây Nguyên.

Tình cảm mặn mà, thắm thiết giữa con người với nhau là một nét đẹp nổi bật của buôn làng Tây Nguyên. Chúng ta ít thấy chuyện hiềm khích nhau, mâu thuẫn nhau của các thành viên trong làng. Điều này không phải chỉ trong văn học mà ngay cả trong thực tế đời sống cũng vậy. Hệ thống luật tục đã duy trì rất tốt sự ổn định trong làng. Những tư tưởng xấu xa, hắc ám không thể tồn tại. Trong hoàn cảnh có thể là khắc nghiệt nhất, con người vẫn sống với nhau hết

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 16/05/2022