Thực Trạng Cơ Chế Điều Hành Lãi Suất Của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam Qua Phân Tích Bằng Quy Tắc Taylor‌‌


hình dự báo lạm phát và dự báo sản lượng kết hợp với quy tắc Taylor gốc để tính toán giá trị hàm tổn thất. Các bằng chứng thực nghiệm là cơ sở khoa học để kết luận NHNN có nên tuân theo quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất và định hướng trong việc hoạch định chính sách lãi suất dựa trên các giả thiết dự báo khác nhau.

Luận án sử dụng hai phương pháp phân tích thực trạng chính sách lãi suất của NHNN qua quy tắc Taylor gồm phương pháp tính truyền thống và phương pháp phân tích kinh tế lượng với các phương pháp hồi quy OLS, mô hình VAR, hệ phương trình đồng thời và phương pháp mô phỏng nhằm hỗ trợ, bổ sung, đối chiếu lẫn nhau với mục đích phân tích tương đối toàn diện và cụ thể thực trạng chính sách lãi suất của NHNN bằng quy tắc Taylor, qua đó kết luận khả năng vận dụng quy tắc Taylor ở Việt Nam và các ưu điểm cũng như hạn chế của cơ chế điều hành lãi suất của NHNN trong giai đoạn nghiên cứu.

+ Hạn chế: Kết quả phân tích kinh tế lượng của bất kỳ một mô hình kinh tế nào tùy thuộc vào biến số sử dụng trong mô hình và chất lượng của dữ liệu. Do luận án sử dụng quy tắc Taylor gốc trong các mô hình phân tích nên các biến số kinh tế vĩ mô khác (ngoại trừ biến tổng phương tiện thanh toán M2) ngoài các biến số của quy tắc Taylor gốc không được đưa vào mô hình phân tích. Ngoài ra, sản lượng tiềm năng và LSTN là hai biến số không thể quan sát mà chỉ có thể ước tính như đã trình bày ở chương 1 của luận án, do đó kết quả tính toán liên quan đến hai biến số này chịu ảnh hưởng bởi các phương pháp ước tính sử dụng. Bên cạnh đó, các khó khăn về chất lượng dữ liệu kinh tế vĩ mô của Việt Nam đã trình bày ở mục 1.8.2 cũng ảnh hưởng đến kết quả phân tích.


Kết luận chương 2:

Nội dung ở chương 2 đề cập chi tiết các mô hình và phương pháp kỹ thuật áp dụng nhằm cụ thể hóa việc phân tích định lượng đề tài cần nghiên cứu trong luận án, trình tự và các bước thực hiện phân tích thực trạng chính sách lãi suất ở Việt Nam qua lăng kính quy tắc Taylor. Tác giả đã khái quát hóa toàn bộ các mô hình và


phương pháp tính toán trong phân tích kinh tế lượng mô hình quy tắc Taylor, theo đó kết quả phân tích sẽ được trình bày ở chương 3 về thực trạng chính sách lãi suất của NHNN trong thời kỳ năm 2000 – 2015, cũng như hiệu quả của việc áp dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 260 trang tài liệu này.

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM QUA PHÂN TÍCH BẰNG QUY TẮC TAYLOR‌‌


Vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng Nhà nước Việt Nam - 16

3.1 Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

3.1.1 Mục tiêu chính sách tiền tệ

Khoản 1 điều 2 của Luật NHNN năm 2010 (Luật số 46/2010/QH12) đã khẳng định NHNN là NHTW của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Mục tiêu của CSTT quốc gia là quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát. NHNN xây dựng chỉ tiêu lạm phát hằng năm để Chính phủ trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện. Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện CSTT quốc gia (điều 2 và điều 4 của Luật NHNN năm 2010).

Khoản 1 điều 4 của Luật NHNN (2010) nêu rò hoạt động của NHNN nhằm mục tiêu:

+ Ổn định giá trị đồng tiền;

+ Bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng;

+ Bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia;

+ Góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với các mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm thanh khoản và an toàn của hệ thống ngân hàng, NHNN phải chọn lựa công cụ CSTT phù hợp để đạt được các mục tiêu này.

3.1.2 Công cụ chính sách tiền tệ quốc gia

Điều 10 Luật NHNN năm 2010 qui định các công cụ CSTT quốc gia bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ.


3.1.3 Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Điều 12 Luật NHNN năm 2010 qui định NHNN công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành CSTT, chống cho vay nặng lãi. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.

Lãi suất là một trong những công cụ CSTT quốc gia được NHNN áp dụng để đạt được mục tiêu CSTT. Mục tiêu của CSTT quốc gia là quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát. NHNN xây dựng chỉ tiêu lạm phát hằng năm để Chính phủ trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện. Để đảm bảo đạt được các mục tiêu của CSTT, NHNN phải chọn lựa công cụ CSTT phù hợp.

3.1.4 Các loại lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

+ Lãi suất tái chiết khấu

Lãi suất tái chiết khấu là hình thức lãi suất tái cấp vốn được áp dụng khi Ngân hàng Nhà nước tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các tổ chức tín dụng. (Điều 9 Luật NHNN năm 1997).

Như vậy các TCTD đem các giấy tờ có giá đến chiết khấu tại NHNN để tăng nguồn vốn kinh doanh như là hình thức vay vốn từ NHNN. LSTCK của NHNN là một trong các căn cứ TCTD xác định lãi suất cho vay đối với khách hàng. NHNN thực hiện tái chiết khấu được xem như là hình thức cung ứng vốn ra thị trường, làm tăng cung tiền. Việc tăng/giảm LSTCK sẽ hạn chế/khuyến khích các TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN thông qua hình thức tái chiếu khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá. Và do đó LSTCK là một trong những công cụ lãi suất NHNN sử dụng để thực hiện CSTT thắt chặt hay mở rộng.

+ Lãi suất tái cấp vốn

Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất do NHNN áp dụng khi tái cấp vốn (Điều 9 Luật NHNN năm 1997).


NHNN thực hiện việc tái cấp vốn cho các ngân hàng theo những hình thức sau đây:

a. Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá;

b. Chiết khấu giấy tờ có giá;

c. Các hình thức tái cấp vốn khác. (Điều 11 Luật NHNN năm 2010).

Về phạm vi và đối tượng áp dụng, LSTCV áp dụng rộng hơn so với LSTCK. Tuy nhiên về bản chất, LSTCK và LSTCV tương tự nhau, và do đó LSTCV là một trong những công cụ lãi suất NHNN sử dụng để thực hiện CSTT thắt chặt hay mở rộng.

+ Lãi suất cơ bản

Lãi suất cơ bản là lãi suất điều hành của NHNN áp dụng đối với tiền Việt Nam do NHNN công bố định kỳ (thường là hàng tháng) trên cơ sở lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của NHNN, lãi suất huy động đầu vào của TCTD và xu hướng biến động cung - cầu vốn, mục tiêu điều hành CSTT trong ngắn hạn.

Bộ luật Dân Sự năm 2005 và quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN của NHNN ngày 16/05/2008 qui định cơ chế điều hành LSCB bằng đồng Việt Nam, theo đó các TCTD không được phép huy động và cho vay vốn vượt quá 150% mức LSCB do NHNN công bố. Trần lãi suất là hình thức biến tướng của LSCB được NHNN thực hiện trong quá trình điều hành CSTT, bao gồm hai dạng:

Trần lãi suất huy động: mức lãi suất tối đa các TCTD có thể huy động vốn từ các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế, áp dụng cho đồng Việt Nam và ngoại tệ.

Trần lãi suất cho vay: mức lãi suất tối đa các TCTD có thể cho vay vốn đối với các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế, áp dụng cho đồng Việt Nam và ngoại tệ.

Theo thông cáo báo chí của NHNN (tài liệu họp báo ngày 17/5/2008), LSCB do NHNN ấn định có hai chức năng: “Một là, làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. Hai là, có tác dụng định hướng và điều tiết lãi suất thị trường nội


tệ liên ngân hàng. Theo đó, lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của NHNN, lãi suất huy động đầu vào của TCTD và xu hướng biến động cung - cầu vốn, mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ trong ngắn hạn.” Cũng theo thông báo trên, do LSCB vừa phản ánh thực tế lãi suất thị trường, vừa đóng vai trò là lãi suất chính sách của NHNN, nên góp phần tạo nên mặt bằng lãi suất huy động và cho vay hợp lý và đảm bảo hài hoà lợi ích giữa người gửi tiền - TCTD - người vay vốn. Đồng thời để đảm bảo sự đồng bộ trong điều hành cơ chế lãi suất nhằm mục đích điều tiết tiền tệ một cách có hiệu quả, NHNN đã ban hành các quyết định thay đổi cơ chế điều hành LSTCK, LSTCV có hiệu lực thi hành từ ngày 19/5/2008. Cơ chế này tạo nên hành lang giữa LSTCK và LSTCV (chênh lệch 2%) có tác dụng góp phần điều tiết lãi suất thị trường liên ngân hàng; trong đó, LSCB và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở sẽ dao động trong hành lang này. Khi điều kiện thị trường tiền tệ thay đổi, NHNN sẽ xem xét, điều chỉnh các mức lãi suất biến động theo một biên độ nhất định, phù hợp với mục tiêu và giải pháp điều hành CSTT.

LSTCK, LSTCV tác động gián tiếp vào thị trường tài chính ảnh hưởng đến các TCTD. Trong khi đó LSCB và trần lãi suất tác động trực tiếp đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế, ảnh hưởng đến hoạt động chi tiêu và tiết kiệm của công chúng, quyết định đầu tư của các tổ chức kinh tế và hoạt động trên thị trường tài chính, tiền tệ của các TCTD.

Với cơ chế điều hành lãi suất LSCB (cùng với biến thể là trần lãi suất), NHNN đã và đang áp đặt cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp tác động vào nền kinh tế để điều tiết hoạt động tiết kiệm và/hoặc đầu tư, qua đó thực hiện CSTT mở rộng hoặc thu hẹp nhằm khuyến khích hay hạn chế tăng trưởng kinh tế. Việc qui định LSCB như một trần lãi suất là cơ sở để các cơ quan chức năng thực hiện việc giám sát, xử lý các hình thức tín dụng cho vay nặng lãi.


3.1.5 Các cột mốc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN từ trước năm 1995 đến hiện nay có thể chia làm ba giai đoạn chính.

Giai đoạn 1995 – 2001

Giai đoạn này lãi suất được NHNN sử dụng mang tính chất kết hợp giữa TLSCV và LSCB và qui định về biên độ lãi suất giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động.

Ngày 02/08/2000 NHNNN ra quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 và 242/2000/QĐ-NHNN1 hiệu lực ngày 05/08/2000 về cơ chế điều hành lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng, theo đó lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam bằng LSCB cộng biên độ là 0,3%/tháng (vay ngắn hạn) hoặc 0,5%/tháng (vay trung, dài hạn), lãi suất cho vay bằng Đôla Mỹ bằng SIBOR (lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngành ngân hàng Singapore) cộng 1%/năm (vay ngắn hạn) hoặc 2,5%/năm (vay trung, dài hạn). Đến tháng 5 năm 2001 trần lãi suất ngoại tệ được dỡ bỏ hoàn toàn, người đi vay ngoại tệ tự thỏa thuận về lãi suất với ngân hàng. Giai đoạn này mở đường cho chính sách tự do hóa lãi suất vào năm 2002.

Giai đoạn 2002 – 2007

Trong giai đoạn này LSCB do NHNN công bố chỉ mang tính chất hướng dẫn. Lãi suất tiền gửi và cho vay do các TCTD, NHTM quyết định trên cơ sở cung, cầu vốn của thị trường.

Ngày 30/05/2002 NHNN ra quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về việc áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận cho phép người đi vay và cho vay tự thỏa thuận lãi suất. LSCB do NHNN qui định chỉ mang tính tham khảo, định hướng, mở đầu cuộc cạnh tranh về lãi suất giữa các TCTD. Các TCTD được chủ động hơn trong nghiệp vụ huy động vốn và cho vay. Tình hình kinh tế phát triển tốt với chính sách tín dụng thoáng từ năm 2002 cho đến cuối năm 2007 khi nền kinh tế thế giới suy yếu và đến giữa năm 2008 thì toàn thế giới chao đảo vì cơn bão khủng hoảng tài chính với sự sụp đổ của một số tập đoàn tài chính lớn ở Mỹ và một số nước châu Âu như


Iceland, Hungary trên bờ vực phá sản. Ở Việt Nam, nền kinh tế trong nước có tỉ lệ lạm phát cao, thị trường bất động sản đóng băng dẫn đến sự quay trở lại của chính sách thắt chặt tín dụng, của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản và trần lãi suất sau một thời gian dài tự do hóa lãi suất.

Giai đoạn 2008 – nay

Năm 2008 thế giới rơi vào khủng hoảng tài chính bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ, lan tỏa đến Châu Âu và các nước Châu Á. Việt Nam tuy chưa hội nhập đầy đủ vào thị trường tài chính quốc tế nhưng ít nhiều cũng chịu tác động bởi cuộc khủng hoảng này. Năm 2008 là năm Việt Nam có tỉ lệ lạm phát cao nhất từ sau 1995 ở mức 19,89%26.

Ngày 26/02/2008 NHNN ra công điện số 02/CĐ-NHNN qui định TLS 12%/năm, kế tiếp là quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008 qui định cơ chế điều hành LSCB, sau đó là quyết định số 1099/QĐ-NHNN về LSCB mở đầu cho một loạt các quyết định về LSCB cho những tháng tiếp theo với đỉnh điểm là QĐ 1317/2008/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008 với LSCB đồng Việt Nam (VND) là 14%/năm hiệu lực từ 11/6/2008 đến 20/10/2008. Kể từ tháng 12 năm 2010, NHNN đã không công bố LSCB định kỳ mà chuyển sang áp dụng TLS 14%/năm kể từ 03/03/2011 và liên tiếp hạ TLS xuống 13%, 12%, 11% rồi 9%/năm trong tháng 3, 4, 5 và 6 năm 2012 cùng với việc chuyển từ cơ chế cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận hiệu lực từ ngày 14/4/2010 sang áp dụng TLSCV vào tháng 5/2012 với mục đích giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay để duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. TLS ngắn hạn tiếp tục được duy trì ở mức 5,5%/năm kể từ ngày 29/10/2014 theo quyết định số 2173/QĐ-NHNN ngày 28/10/2014 cho đến nay.

3.1.6 Một số nhận xét về cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam

Tổng quát, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN bao gồm các dạng sau:



26 Số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam www.gso.gov.vn

Xem tất cả 260 trang.

Ngày đăng: 27/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí