Điều Kiện Vận Dụng Quy Tắc Taylor Trong Cơ Chế Điều Hành Lãi Suất Của Ngân Hàng Trung Ương


- Kết quả nghiên cứu của Allan Dizioli và Jochen M. Schmittmann (2015) về CSTT của Việt Nam và của Peiris (2012) về CSTT của Indonesia có một số điểm tương đồng như hệ số tính ì của CSTT γilag gần bằng nhau, hệ số độ lệch lạm phát γπ

tương đối cao và hệ số độ lệch tỉ giá hối đoái γzgap thấp24. Cụ thể:



γilag

γπ

γygap

γzgap

Tiền

định

Hậu

định

Tiền

định

Hậu

định

Tiền

định

Hậu

định

Tiền

định

Hậu

định

Việt Nam

0,5

0,4909

1,8

1,527

0,45

0,4398

0,10

0,1158

Indonesia

0,5

0,4940

1,5

1,509

0,20

0,1950

0,05

0,1110

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 260 trang tài liệu này.

Vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng Nhà nước Việt Nam - 13

Từ kết quả phân tích sự vận dụng quy tắc Taylor của Indonesia có thể nhận định sơ bộ rằng Việt Nam có khả năng và điều kiện để có thể vận dụng quy tắc Taylor như Indonesia đã áp dụng kể từ năm 2005.

1.3.7 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trên cơ sở nghiên cứu sự vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW các nước, cùng với các thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi vận dụng quy tắc Taylor, một số kinh nghiệm được đúc kết cho Việt Nam khi vận dụng quy tắc Taylor trong thực tiễn như sau:

+ NHTW các nước có khung pháp lý CSTT rò ràng, xác định một loại lãi suất làm LSCS, trên cơ sở đó hoạch định và điều hành CSTT, đảm bảo đạt được mục tiêu CSTT, chủ yếu hai mục tiêu cơ bản là ổn định lạm phát và duy trì tăng trưởng kinh tế.

+ NHTW các nước đã và đang vận dụng quy tắc Taylor như là công cụ hướng dẫn thông qua sự kết hợp với các mô hình kinh tế khác để hoạch định CSTT (Fed, BoE, RBA, BI), quyết định sử dụng các công cụ kích thích tăng trưởng kinh tế khác khi lãi suất tiến về mức không (BoJ), và đánh giá sự hợp lý của CSTT. Mặc dù còn một số vấn đề tồn tại trong bản thân quy tắc Taylor, tuy nhiên, chi phí cho việc thắt chặt CSTT trong khi việc không thắt chặt CSTT là hợp lý nhỏ hơn chi phí việc


24 Sự so sánh mang tính chất tương đối do thời gian dữ liệu nghiên cứu ở Việt Nam (năm 2000 – 2014) khác với Indonesia (năm 2000 – 2012); quy tắc CSTT là quy tắc Taylor sử dụng bởi hai tác giả trong các mô hình là tương tự nhau.


không thắt chặt CSTT trong khi việc thắt chặt mới là hợp lý (Fed) cho thấy việc sử dụng quy tắc Taylor để kiềm chế lạm phát là phù hợp. Suy cho cùng nếu NHTW phản ứng mạnh với lạm phát, kết cục lạm phát sẽ tiến gần đến mức lạm phát mục tiêu (RBA).

+ Sự thống nhất về cơ sở dữ liệu kinh tế vĩ mô và phương pháp tính các biến trong quy tắc Taylor, bảo đảm tính xuyên suốt của kết quả tính toán. Do LSTN và sản lượng tiềm năng là hai đại lượng không thể quan sát và chỉ có thể ước lượng nên độ chính xác mang tính chất tương đối. Sự thống nhất phương pháp ước lượng đảm bảo các kết quả có thể so sánh được giữa các thời kỳ và sử dụng để dự báo cho tương lai. Việc vận dụng quy tắc Taylor là một quá trình kinh nghiệm và đúc kết từ thực tiễn dựa trên cấu trúc đặc thù của nền kinh tế (RBA).

+ Về quy tắc Taylor, mô hình được sử dụng ở dạng làm phẳng lãi suất và nhìn về quá khứ (Fed), độ trễ của biến độc lập phổ biến là 1 (Fed, BoE, RBA). Mô hình New Keynesian kết hợp quy tắc Taylor được sử dụng để tính toán hệ số lạm phát và hệ số độ lệch sản lượng của quy tắc CSTT tối ưu với giá trị hàm tổn thất nhỏ nhất (ECB). Phản ứng với sốc cung, hệ số độ lệch lạm phát có thể bằng hệ số độ lệch sản lượng; với sốc cầu, hệ số độ lệch lạm phát nhỏ hơn hệ số độ lệch sản lượng (Fed).

+ Xem xét sự thay đổi của LSTN và tỉ lệ lạm phát mục tiêu trong trung và dài hạn khi có sự thay đổi cấu trúc của nền kinh tế và/hoặc sự thay đổi của chu kỳ kinh tế (Fed, ECB, RBA). NHTW các nước có xu hướng xây dựng tỉ lệ lạm phát mục tiêu ở mức thấp từ 2%-3%/năm.

+ NHTW các nước họp định kỳ xem xét việc thay đổi CSTT và công bố thông tin ngay sau khi ra quyết định về CSTT, góp phần minh bạch hóa chủ trương, đường lối của NHTW, tăng niềm tin của công chúng vào cam kết thực hiện mục tiêu CSTT của NHTW.

1.4 Điều kiện vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương

Trên cơ sở nghiên cứu nội hàm quy tắc Taylor, cơ chế điều hành lãi suất và kinh nghiệm vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của một số NHTW


trên thế giới, tác giả đúc kết một số điều kiện có thể vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHTW như sau:

Một là, ổn định lạm phát, và tăng trưởng kinh tế bền vững (hoặc tối đa việc làm) là các mục tiêu chính, cơ bản của CSTT của NHTW được thực hiện chủ yếu bằng công cụ của CSTT là loại lãi suất ngắn hạn hay LSCS. Theo Asso, Kahn, và Leeson (2010), quy tắc Taylor có thể áp dụng trong chế độ tiền tệ thực hiện mục tiêu kép là ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế hoặc trong chế độ tiền tệ qui định lạm phát là mục tiêu chính yếu như ở các quốc gia áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu. Do bởi bên cạnh mục tiêu rò ràng về tỉ lệ lạm phát, các NHTW với chế độ tiền tệ lạm phát mục tiêu không cố gắng để đạt mục tiêu bền vững giá cả theo từng giai đoạn mà thực hiện mục tiêu này trong thời kỳ trung hạn, hơn nữa độ lệch sản lượng được xem như là chỉ báo của áp lực lạm phát ở tương lai dẫn đến sự tập trung vào mục tiêu duy nhất là mức lạm phát hiện tại và tương lai.

Hai là, phân tích chính sách lãi suất của NHTW trong lịch sử bằng quy tắc Taylor với các kết quả thực nghiệm cho thấy sự hợp lý và/hoặc bất hợp lý của chính sách lãi suất của NHTW có thể giải thích bằng quy tắc Taylor. Giá trị hàm tổn thất của NHTW được tính toán theo mô hình kinh tế vĩ mô đặc thù nhỏ đi khi NHTW vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của mình so với khi không áp dụng quy tắc Taylor. Bằng chứng thực nghiệm là kết quả nghiên cứu khoa học minh chứng hiệu quả của việc vận dụng quy tắc Taylor của NHTW trong cơ chế điều hành lãi suất.

Ba là, NHTW có sự độc lập về thực thi CSTT. Theo Fed, một NHTW độc lập về thực thi CSTT có thể cam kết đáng tin cậy hơn trong việc thực hiện mục tiêu giá cả bền vững và tối đa hóa việc làm25. Điều kiện này giúp NHTW chủ động trong việc điều hành công cụ lãi suất và các công cụ CSTT khác nhằm đảm bảo tính hiệu quả của việc vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất góp phần thực hiện tốt các mục tiêu cuối cùng của CSTT là ổn định lạm phát và tăng trưởng kinh tế bền vững.


25 https://www.richmondfed.org/research/our_perspective/monetarypolicyindependence


Bốn là, sự minh bạch về CSTT. Mức độ công bố thông tin về CSTT ảnh hưởng đến kỳ vọng lạm phát của công chúng và các tổ chức kinh tế thông qua sự hiểu biết về cách thức điều hành CSTT của NHTW. Sự minh bạch về CSTT giúp công chúng hiểu rò hơn về mức độ cam kết của NHTW trong việc thực hiện các mục tiêu CSTT và cách thức điều hành công cụ CSTT.

Điều kiện (1) và (2) là điều kiện cần thiết để có thể vận dụng quy tắc Taylor trong hoạch định chính sách lãi suất; điều kiện (3) và (4) giúp nâng cao hiệu quả của việc vận dụng quy tắc Taylor trong quá trình điều hành lãi suất. Ngoài bốn điều kiện trên, đối với các nền kinh tế mở có qui mô nhỏ, các yếu tố về khung pháp lý của CSTT, dạng quy tắc Taylor sử dụng (hướng về tương lai hay nhìn về quá khứ), việc chọn lựa quy tắc chính sách (công cụ - instrument rules hay mục tiêu – targeting rules) trong quá trình ra quyết định về CSTT và công bố thông tin của NHTW cũng nên được xem xét trong việc vận dụng quy tắc Taylor của các NHTW (Asso, Kahn, và Leeson 2010).


Kết luận chương 1:

Chương 1 của luận án đã khái quát hóa những nét chung nhất và cơ bản nhất của quy tắc Taylor cùng với vai trò, ý nghĩa của các thành tố của quy tắc gắn liền với các quyết sách về CSTT trong quá trình hoạch định và ứng phó với các thay đổi của nền kinh tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng trình bày nội dung cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương, kinh nghiệm vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của một số NHTW trên thế giới, bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi vận dụng quy tắc Taylor cùng với các khó khăn và thuận lợi. Lý luận ở chương 1 là nền tảng cơ bản để tiến hành công tác phân tích thực trạng chính sách lãi suất ở Việt Nam qua lăng kính quy tắc Taylor với phương pháp và kỹ thuật phân tích được trình bày chi tiết ở chương 2 của luận án, đồng thời là cơ sở đề xuất các giải pháp cơ bản để vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN.


CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BẰNG QUY TẮC TAYLOR


2.1 Phương pháp tính toán thông thường

2.1.1 Quy tắc Taylor sử dụng trong phương pháp tính toán thông thường

Phương pháp tính toán thông thường dựa trên công thức của Billi (2011), một dạng biến thể của quy tắc Taylor (1993). Tác giả sử dụng công thức (1.5) it = π* + r* + βπt – π*) + βy(gt – g*) để tính toán mức LSCS và so sánh với các loại lãi suất của NHNN để kết luận về sự phù hợp giữa quy tắc Taylor và chính sách lãi suất thực tế ở Việt Nam. Hệ số βπ và βy được giả định là bội số của 0,5 thuộc dãy giá trị (0,5; 1,5).

Ưu điểm của công thức Billi (2011) là có thể xác định LSCS bằng phương pháp tính thông thường mà không thông qua các mô hình kinh tế lượng và do đó nhanh chóng cho kết quả tham khảo. Bằng chứng thực nghiệm từ Billi (2011) cho thấy sự khác biệt về tác động của độ lệch sản lượng yt và độ lệch tăng trưởng sản lượng (gt – g*) đối với quy tắc Taylor qua sự biến động của lạm phát và độ lệch sản lượng là không đáng kể (so sánh bằng độ lệch chuẩn của các biến động). Trong trường hợp không có sự hiệu chỉnh số liệu GDP, tác động của sự thay thế này đến biến động của độ lệch sản lượng yt của quy tắc Taylor là như nhau.

Công trình nghiên cứu của Asso, Kahn, và Leeson (2010) cho thấy, các

NHTW đã sử dụng quy tắc Taylor gốc để thảo luận, phân tích và đánh giá CSTT. Kết quả nghiên cứu chỉ ra, các NHTW đã coi trọng quy tắc Taylor trong viêc kiểm chứng và hoạch định CSTT.

Kahn (2010) sử dụng bốn biến thể từ quy tắc Taylor gốc với sự thay đổi giá trị của hệ số βy và/hoặc r* để tính toán mức lãi suất từ quy tắc này với sự so sánh với FFR thực của Fed giai đoạn 1987-2009, theo đó FFR gần sát với mức LSCS từ các quy tắc Taylor biến thể trong giai đoạn 1987-1997 và thấp hơn trong giai đoạn 1998-2009. Một trong số các nguyên nhân ảnh hưởng đến sự thay đổi của FFR là khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, vỡ nợ ở Nga năm 1998, và sự sụp đổ của


Quỹ Phòng hộ Quản trị Vốn đầu tư Dài hạn ở Mỹ (Long term capital management hedge fund). Sau đó Fed buộc phải thắt chặt CSTT bằng cách nâng FFR vào tháng 6/1999 nhưng mức tăng của FFR không cao như mức được đề xuất từ quy tắc Taylor. Nghiên cứu này đã phân tích chi tiết CSTT của Fed qua các biến thể của quy tắc Taylor.

De Brouwer và O‟Regan (1997) đánh giá các qui tắc giản đơn của CSTT đối với nền kinh tế Úc trong giai đoạn 1980-1996, đã kiểm định bảy mô hình tính lãi suất ngắn hạn đơn giản để chọn mô hình hoạt động tốt nhất, trong đó có quy tắc Taylor. Phương pháp kiểm định được sử dụng là phân tích mô phỏng đối với từng mô hình với các giá trị khác nhau của hệ số trong hàm phản ứng. Kết quả thực nghiệm cho thấy, trong số bảy mô hình nghiên cứu, quy tắc Taylor cho kết quả tốt nhất. Quy tắc Taylor không chỉ làm giảm sự biến động trong sản lượng mà về căn bản còn làm giảm sự biến động của lạm phát.

Lee và Crowley (2010) tiến hành đánh giá CSTT của NHTW châu Âu (ECB) gồm 12 nước thành viên của khu vực đồng tiền chung Euro trong giai đoạn 1999- 2009, sử dụng quy tắc Taylor gốc (1993). Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của họ cho thấy có sự bất cân xứng giữa các thành viên của ECB. Đối với hai thành viên nòng cốt là Pháp và Đức, CSTT của ECB gần như tương thích với đề xuất từ quy tắc Taylor gốc. Ngược lại, chính sách ECB quá nới lỏng đối với hai nước là Hy Lạp và Ireland có mức lạm phát cao trong thời kỳ đầu của giai đoạn nghiên cứu.

Dựa trên một số nghiên cứu tiêu biểu trên thế giới, có thể nhận định rằng có thể áp dụng phương pháp tính toán thông thường đối với quy tắc Taylor gốc để phân tích CSTT. Việc thay đổi các hệ số của quy tắc Taylor trong phân tích CSTT là để xem xét mức độ tác động của sự thay đổi lạm phát và tăng trưởng kinh tế đến sự thay đổi của LSCS theo quy tắc và sự khác biệt đối với LSCS thực của NHTW khi có sự thay đổi của các hệ số. Độ lệch giữa LSCS thực tế của NHTW với mức lãi suất tính bằng quy tắc Taylor chỉ ra mức độ phù hợp của chính sách lãi suất tham chiếu theo quy tắc này.


2.1.2 Phương pháp phân tích chính sách lãi suất bằng quy tắc Taylor (1993) theo tính toán thông thường

+ Bước một: Thiết lập một số giả thiết điều kiện để áp dụng quy tắc Taylor (1993).

+ Bước hai: Sử dụng công thức (1.5) để tính toán giá trị LSCS được đề xuất bởi quy tắc Taylor (itTAYLOR) theo năm trong giai đoạn 2000-2014. Các hệ số βπ và βy nhận các giá trị là bội số của 0,5 trong dãy giá trị từ 0,5 đến 1,5, cụ thể là 0,5, 1 và 1,5. Tỉ lệ lạm phát mục tiêu có giá trị 5-7%/năm.

+ Bước ba: Tính toán độ lệch giữa các loại lãi suất và itTAYLOR được tính toán ở bước hai theo công thức: Độ lệch = it - itTAYLOR. Biến it đại diện cho LSCB, TLS, LSTCK và LSTCV. Giá trị trung bình tuyệt đối là giá trị bình quân của các giá trị

tuyệt đối (>0) của các độ lệch (ký hiệu t n đối với dữ liệu năm, q đối với dữ liệu quý).

+ Bước bốn: Kết quả các giá trị về hệ số βπ, βy và tỉ lệ lạm phát mục tiêu có độ lệch giữa it và inTAYLOR có mức khác biệt thấp nhất (giá trị tuyệt đối nhỏ nhất) từ

phân tích theo năm sẽ áp dụng cho phân tích theo quý. Thực hiện các bước hai và ba đối với các hệ số βπ, βy và tỉ lệ lạm phát mục tiêu đã xác định để phân tích theo quý.

+ Bước năm: Phân tích chính sách lãi suất của NHNN qua kết quả tính toán

năm và quý, từ đó đưa ra nhận xét về chính sách lãi suất của NHNN.

+ Bước sáu: Kiểm định và dự đoán lãi suất theo công thức (1.5) ở thời kỳ năm 2015 – 2016.

2.2 Phương pháp phân tích chính sách lãi suất bằng mô hình kinh tế lượng

2.2.1 Mô hình kinh tế lượng theo quy tắc Taylor

Phương trình (1.4) được viết lại:


Đặt c = r* + (1 – βπ)π*, ta có biểu thức

it = c + βππt + βyyt + ut (2.1)

2.2.1.1 Xác định các biến của mô hình hồi qui theo quy tắc Taylor

Các biến được đưa vào mô hình hồi qui như sau:


+ INF: biến số tỉ lệ lạm phát bốn quý liền kề (=πt)

+ OGAP: biến số độ lệch sản lượng (yt) được xác định bằng công thức OGAP = 100*[log(GDP94_SA) – log(GDP94_SA_HP)], trong đó (GDP94_SA) là giá trị GDP quý theo giá năm 1994 được hiệu chỉnh mùa vụ theo phương pháp hiệu chỉnh X12 và GDP94_SA_HP là giá trị GDP tiềm năng tính theo bộ lọc Hodrick- Prescott (HPF) sau khi đã hiệu chỉnh thời vụ.

+ LSCB: biến số lãi suất cơ bản quý.

+ TLS: biến số trần lãi suất huy động quý (tính giá trị lớn nhất bằng 1,5 x LSCB khi áp dụng).

+ LSTCK: biến số lãi suất tái chiết khấu quý.

+ LSTCV: biến số lãi suất tái cấp vốn quý.

+ LSCB, TLS, LSTCK, và LSTCV được tính theo quý, năm theo phương pháp bình quân gia quyền với quyền số là tổng số ngày hiệu lực áp dụng các mức lãi suất tương ứng trong một quý hoặc một năm.

Như vậy, phương trình (2.1) có thể viết lại như sau:

it = c + βπINF + βyOGAP + ut (2.2)

Trong đó it nhận các giá trị lãi suất khác nhau là LSCB, TLS, LSTCK, LSTCV để xác định sự tương quan giữa các biến INF và OGAP với từng loại lãi suất của NHNN theo mô hình quy tắc Taylor dạng (1.4).

Do bởi quy tắc Taylor (2.2) có dạng mô hình kinh tế lượng ba biến là it, INF, OGAP, việc ước lượng mô hình (2.2) được thực hiện với từng loại lãi suất (it) của NHNN trong giai đoạn 2000Q1 – 2015Q4 nhằm xác định các lãi suất của NHNN có phù hợp với quy tắc Taylor không. Việc phân tích thực trạng chính sách lãi suất dựa trên đặc điểm của cơ chế điều hành lãi suất tổng thể toàn giai đoạn nghiên cứu và theo từng thời kỳ. Các loại lãi suất phù hợp với quy tắc Taylor sẽ được lựa chọn để tiến hành tiếp tục phân tích qua các mô hình kinh tế lượng để làm rò khả năng vận dụng quy tắc Taylor ở Việt Nam và dự báo lãi suất trong năm 2016. Với các mục tiêu như vậy, tác giả đã thực hiện ước lượng quy tắc Taylor dạng (2.2) theo phương pháp sau:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/06/2022