Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi sẽ kết hợp cả cách hiểu hiện đại theo nghĩa hàn lâm viện như trên, đồng thời sẽ phân tích thực tế văn du ký, so sánh với văn du ký chữ Hán trung đại để xác lập những chỗ văn du ký nửa đầu thế kỷ XX tiếp tục truyền thống văn du ký trung đại, những điểm mới không có trong văn du ký trung đại và những điểm chịu ảnh hưởng của văn học Phương Tây.
1.2. Điểm qua lịch sử của văn du ký
Lịch sử văn du ký là một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu riêng mà hiện nay ở Việt Nam vẫn còn thiếu vắng. Chúng tôi xin dựa vào một số quan sát của bản thân và một số từ điển phổ thông để điểm qua, cốt đem lại cho bản thân một ý niệm tương đối về một đối tượng có lịch sử vận động, thay đổi.
1.2.1. Văn du ký ở Việt Nam trung đại
Các văn nhân trí thức Trung Quốc cổ đại đã rất chú trọng việc đi xa. Tư Mã Thiên là nhà du lịch lớn thời cổ đại. Bộ Sử ký đồ sộ của ông được viết trên cơ sở tham bác các tài liệu lịch sử đồng thời là kết quả quan sát thực địa của những chuyến đi trên một địa bàn rộng lớn của Trung Quốc thời cổ.
Thời trung đại ở Việt Nam, văn du ký phổ biến nhất thường của các tác giả là nhà nho. Họ đi sứ Trung Quốc hoặc thực hiện các cuộc thuyên chuyển hay du lãm trong nước những lúc nhàn rỗi và khi về ngồi hồi tưởng lại, ghi những cảm tưởng, suy nghĩ, những quan sát thu nhận được trên đường du lữ, để lại các áng văn thơ du ký.
Số lượng sáng tác văn du ký còn giữ được không nhiều, chủ yếu tập trung trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX. Xét mục đích chuyến đi, địa điểm di chuyển đến, và hình thức chữ viết, có thể tạm thời chia văn du ký trung đại thành ba loại: loại văn du ký của các sứ thần Việt Nam đi Trung Quốc và đến giữa thế kỷ XIX có văn du ký của sứ thần nhà Nguyễn sang Đông Nam Á và Pháp; văn du ký của các nhà nho đi lại giữa các vùng trong nước; một loại thứ ba là văn du ký viết bằng chữ cái latinh mà ngày nay ta gọi là chữ quốc ngữ của Philiphê Bỉnh và Trương Vĩnh Ký, tuy xuất hiện ở thời trung đại nhưng có những nét của du ký hiện đại. Thơ sáng tác trong các chuyến đi sứ và du lãm trong nước của nhà nho rất nhiều nhưng chúng tôi chỉ liên hệ khi thấy cần thiết.
- Du ký của các nhà nho trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam: các chuyến đi trong phạm vi không gian của nước Việt được ghi chép lại cũng khá đa đạng. Về thời gian, du ký ở các thế kỷ trước đã lác đác xuất hiện ví dụ Bài ký tháp Linh Tế núi Dục Thúy của Trương Hán Siêu (chưa kể thơ, phú có nội dung du ký như thơ của Nguyễn Trãi viết về Côn Sơn, phú của Nguyễn Hàng Đại Đồng phong cảnh phú). Nhưng phải đợi đến thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ XIX, thể loại du ký văn xuôi này mới thực sự nở rộ. Đó là bài ký động Nhị Thanh của Ngô Thì Sĩ. Đó là chuyến đi dài ngày đến hơn nửa năm của danh y Lê Hữu Trác từ Hà Tĩnh ra Thăng Long chữa bệnh cho Trịnh Cán với những cuộc du ngoạn trong lúc rảnh rỗi được chép lại trong Thượng kinh ký sự. Chuyến đi về quê Văn Giang, chuyến du ngoạn quanh Hồ Tây mất đến ba ngày và những cuộc đàm đạo thơ ca với bạn thơ tại Thăng Long. Hoặc là một chuyến du ngoạn từ Thăng Long lên núi Sài Sơn vãng cảnh chùa Phật Tích trong phạm vi ba ngày của Phạm Đình Hổ và bè bạn còn ghi lại trong Tang thương ngẫu lục, Vũ trung tùy bút với rất nhiều cảm xúc khác nhau. Ngoài ra, thế kỷ XVIII-XIX còn để lại nhiều bài ký đi thăm chùa chiền, danh lam thắng cảnh khác trong lãnh thổ Việt Nam. Tinh thần chung của du ký thời trung đại là ghi chép về phong cảnh và các di tích văn hóa lịch sử. Nhà nho vốn có tinh thần hoài cổ và cảm hứng ẩn dật nên viết nhiều về các di tích cổ và không gian xa vắng, tĩnh mịch.
-Văn du ký của sứ thần Việt Nam: Việc đi xa, đi ra ngoài phạm vi đất nước ở thời xưa là một dạng hoạt động để lại dấu ấn đậm nét trong văn thơ nhà nho Việt. Quan hệ bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc thời trung đại qui định sự ra đời một loại nhân vật văn hóa đặc biệt gọi là sứ thần. Các chuyến đi của họ thường gọi là đi Bắc sứ. Các áng văn du ký tiêu biểu thuộc loại này có Bắc sứ thông lục của Lê Quí Đôn (1726-1784), Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh. Trong bài tựa cho Bắc sứ thông lục cho biết thơ viết đi sứ của sứ thần Việt Nam trong lịch sử thì rất nhiều, song văn xuôi thì mãi đến Lê Hữu Kiều mới viết Sứ Bắc kỷ sự (chuyến đi sứ năm 1737) [theo 88,1]-tập này hiện không còn. Và tập Bắc sứ thông lục là tập văn du ký thứ hai của sứ thần Việt Nam, viết bằng văn xuôi chữ Hán trong chuyến đi sứ năm 1760-1761. Lê Quí Đôn ghi chép tỉ mỉ, chi tiết trước hết các nội dung liên quan đến chuyến đi
sứ, từ thành phần sứ đoàn, các cống vật, lễ vật; hành trình qua các ngày tháng, các địa điểm được ghi theo hình thức nhật ký, dừng lại làm lễ tế thần sông núi ở đâu, khi nào; ghi chép nội dung đối đáp với các quan lại Trung Quốc các cấp (thường qua hình thức bút đàm) v.v…Có thể nói tập thông lục này có nhiều điểm ta sẽ gặp lại trong Như Tây nhật trình của Phạm Phú Thứ ở cuối thế kỷ XIX vì chức năng chính của các nhật trình là ghi chép về nội dung hoạt động của sứ thần chứ không phải một khách du lịch. Tuy vậy, bên cạnh việc ghi chép chi tiết các nội dung hoạt động trực tiếp liên quan đến công việc của sứ thần, họ cũng có ghi lại các điều quan sát, các cảm xúc, suy nghĩ của một khách đi đường.
Có thể bạn quan tâm!
- Văn du ký nửa đầu thế kỷ XX và tiến trình hiện đại hóa văn học - 1
- Văn du ký nửa đầu thế kỷ XX và tiến trình hiện đại hóa văn học - 2
- Khái Niệm “Hiện Đại” Và “ Hiện Đại Hóa Văn Học ”
- Nghiên Cứu, Phê Bình Văn Du Ký Trong Nước Và Thế Giới
- Nghiên Cứu Văn Du Ký Ở Nước Ngoài
- Thời Đại Của Những Mối Liên Hệ Phương Đông - Phương Tây
Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.
Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh (1750-1805) nói cho đúng ra, rất ít điểm gần gũi với văn du ký. Tập ký này chủ yếu ghi lại những sự việc, những thảm cảnh khi ông theo Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc do bị quân Tây Sơn đánh đuổi. Tâm trạng của người bề tôi tòng vong không cho phép ông quan sát khác biệt văn hóa hay có hứng thú ngâm vịnh. Tuy nhiên, các ghi chép của bọn bầy tôi tòng vong ở Trung Quốc có một giá trị tư liệu quí báu đối với việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Đến giữa thế kỷ XIX, nhà Nguyễn phái một số nhà nho sang vùng Đông Nam Á với mục đích mua hàng hóa, tìm hiểu tình hình người Tây dương (Phương Tây) v.v.v. Trong số các văn du ký viết từ các chuyến đi đó, có thể kể một số ghi chép tiêu biểu như Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức (1785-1849), Hải trình chí lược của Phan Huy Chú (1782-1840). Các tập ký này ghi chép những điều các vị quan sát được từ các xứ thuộc địa như Singapore, Penang, Java, nhận xét về người Phương Tây, ví dụ nhận xét về Hồng mao tức người Anh, người Hà Lan có mặt ở Đông Nam Á. Nội dung ghi chép trong các tập ký đó cấp cho độc giả hiện đại những thông tin quí báu về lịch sử xâm nhập Phương Đông của các thế lực thực dân Phương Tây cũng như cách thức mà người Việt Nam ở giữa thế kỷ XIX tiếp nhận sự khác lạ của một nền văn hóa khác, của những con người khác đến từ Phương Tây đó.
Cuối thế kỷ XIX, do Việt Nam đã dần trở thành thuộc địa của Pháp, quan hệ Việt Nam - Pháp đòi hỏi cử sứ thần sang Pháp nên nhà Nguyễn đã cho một số đoàn
đi sứ. Tác phẩm sứ trình tiêu biểu cho kiểu đi xa này chính là Tây hành nhật ký do Phạm Phú Thứ viết [214]. Viết theo hình thức nhật ký, kể tuần tự các công việc, các sự vụ, các chuyến thăm thú, gặp gỡ ở Pháp, đây là một tài liệu có giá trị nhiều mặt. Tuy nhiên, trong tư cách một sứ thần, Phạm Phú Thứ thường rất kiệm lời, rất ít khi bộc lộ suy nghĩ, đánh giá của bản thân về con người và văn hóa Pháp. Thành thử nếu cứ máy móc áp theo định nghĩa văn du ký là ghi lại những sự khác lạ thì tập ký này ít màu sắc du ký.
- Trong khuôn khổ thời gian của thời trung đại, có hai tập ký có thể nói là rất khác với văn du ký trung đại của nhà nho. Đó là Sách sổ sang chép các việc [16] của Philiphê Bỉnh (hoàn thành năm 1822) và Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất hợi (hoàn thành năm 1876) của Trương Vĩnh Ký (1837-1898) [84]. Đây là hai tập văn du ký viết bằng tiếng Việt-chữ quốc ngữ. Tập của Philiphê Bỉnh ghi chép và có những nhận xét, quan sát, so sánh văn hóa Việt Nam và văn hóa Phương Tây (cụ thể là Bồ Đào Nha) rất tinh tế, ghi nhận cuộc tiếp xúc văn hóa thuộc loại đầu tiên giữa Phương Đông và Phương Tây trong con mắt một người Việt. Tập ký của Trương Vĩnh Ký có nhiều quan sát cụ thể, tỉ mỉ về phong tục, lối sống, về đời sống văn hóa, nghệ thuật của miền Bắc Việt Nam. Do viết bằng chữ quốc ngữ và bản thân tác giả là những người am hiểu văn hóa, văn học Phương Tây nên văn du ký của họ có khá nhiều nét hiện đại, rất khác với văn du ký của các nhà nho.
1.2.2. Văn du ký Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Bước sang nửa đầu thế kỷ XX, văn du ký tiếng Việt phong phú và đa dạng cả về số lượng và chất lượng, có nhiều giá trị văn học, sử học, văn hóa học.
So với thời kỳ trung đại, ở đầu thế kỷ XX, số người Việt Nam đi xa, kể cả đi ra nước ngoài nhiều hơn hẳn. Sự xuất hiện của báo chí, xuất bản hiện đại đã tạo điều kiện thuận lợi hơn bao giờ hết cho việc công bố và đọc văn du ký. Trên hầu hết các báo, tạp chí xuất bản ở đầu thế kỷ XX ít nhiều đều có đăng văn du ký và giá cả phải chăng của báo chí đã giúp cho người đọc tiếp cận được các áng văn du ký hiện đại này. Đến lượt mình, văn du ký trong buổi đầu đã đóng vai trò đắc lực tạo nên sự hấp dẫn của báo chí, giúp báo chí tồn tại trong khi sáng tác hư cấu bằng tiếng Việt còn chập chững.
Hầu hết các báo, tạp chí giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX đều có đăng văn du ký. Các báo địa phương như Nam Kỳ tuần báo, Thanh Nghệ Tĩnh tân văn, Thần chung… các báo có vận mệnh khá ngắn ngủi như An Nam tạp chí, các báo chuyên về văn học như Phong hóa ở các mức độ khác nhau đều đăng văn du ký. Có ba tờ tạp chí và báo công bố nhiều du ký, đó là tạp chí Nam phong, báo Phụ nữ tân văn, tạp chí Tri tân. Chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu chủ yếu mảng văn du ký trên ba tờ báo, tạp chí này vì chúng tiêu biểu cho nhiều mặt: vùng miền, cho các giai đoạn khác nhau và vì khuynh hướng của tờ báo, tạp chí.
Nam phong tạp chí 3 tồn tại trong một thời gian khá dài, từ năm 1917 đến
năm 1934. Đây là một tờ tạp chí có nội dung tổng hợp trong đó phần văn học được dành một địa vị quan trọng, bao gồm cả văn du ký. Nam phong thường cho in những bài văn du ký trung đại bằng Hán văn đã dịch ra tiếng Việt và các bài du ký văn quốc ngữ nửa đầu thế kỷ XX. Về độ lớn của dung lượng, có thể khẳng định du ký Nam phong chiếm vị trí dẫn đầu, cá biệt Pháp du hành trình nhật ký của Phạm Quỳnh có dung lượng dài hơn ba trăm trang, bao trùm một khoảng thời gian và không gian khá dài rộng trong chuyến đi Pháp 6 tháng của tác giả năm 1922, rất tiêu biểu cho văn du ký nửa đầu thế kỷ XX về nhiều mặt.
Phụ nữ tân văn hoạt động từ năm 1929 đến năm 1935 ở Sài Gòn, là một tờ báo tư nhân, có xu hướng nữ quyền, cũng thường in văn du ký nhưng dung lượng không thực lớn. Có điều tờ báo này ưu tiên cho một số thiên du ký của phụ nữ như du ký của Phạm Vân Anh4 (đi sang Pháp) hay du ký của cô Nguyễn Thị Kiêm đi từ Sài Gòn ra Hà Nội để diễn thuyết về chủ đề nam nữ bình đẳng. Tờ báo cũng là một trường hợp khá tiêu biểu của báo chí Nam Kỳ nửa đầu thế kỷ XX. Tiếc là tại Thư
viện Quốc gia chỉ còn lưu lại không đầy đủ các số báo nên chúng tôi chỉ đọc được không quá 5 bài du ký và một vài bài bàn về phụ nữ với du ký.
Tạp chí Tri tân tồn tại từ 1941 đến 1945, thuộc về giai đoạn cuối của nửa đầu thế kỷ XX. Đây là tờ tạp chí thiên về khảo cứu, tuy có dành một số trang cho mảng nghiên cứu, phê bình các hiện tượng văn hóa văn học đương đại, song chủ yếu ưu
3 Nam phong tạp chí là tên gọi chính thức. Nhưng một số nhà nghiên cứu vẫn gọi đây là “báo” (xem Từ điển Văn học –bộ mới, mục từ Phạm Quỳnh (230, 1366). Thiết nghĩ cần gọi tên đúng của sự vật.
4 Thực ra, Phạm Vân Anh không phải là tác giả nữ mà chỉ là bút danh của Đào Trinh Nhất.
tiên đăng những áng văn du ký có tính chất nghiên cứu, khảo sát. Thống kê sơ bộ cho thấy có 23 thiên văn du ký công bố trên Tri tân từ 1941 đến 1945, có thiên du ký kéo dài nhiều kỳ như Indrapura của Mãn Khánh Dương Kỵ (4 kỳ) hay Bốn năm trên đảo Các Bà (5 kỳ) của Vân Đài, Hai tháng ở gò Óc Eo của Biệt Lam Trần Huy Bá (6 kỳ).
Số lượng tác phẩm văn du ký trên Nam phong đã đủ để nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm thành một bộ gồm 3 tập dày dặn [31, 32, 33] trong đó sưu tầm tuyển chọn được 52 tác phẩm du ký nửa đầu thế kỷ XX chưa kể du ký trung đại. Bộ tài liệu quí này giúp người đọc hiện đại dễ dàng tiếp cận di sản văn học vẫn ít được biết.
Chúng ta đều biết, trong thập niên gần đây, thể loại văn du ký như đang có sự phục hưng sau một thời gian dài trầm lắng. Các thiên du ký đương đại có thể đã in thành sách mà có thể chỉ mới công bố trên blog cá nhân (như du ký của Vương Trí Nhàn viết gần đây nhân khi ông đi du lịch Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Đài Loan -xem thư mục các số từ 134 đến 136). Nội dung của các thiên du ký này chủ yếu vẫn theo tinh thần đi du lịch, nhìn người rồi quay lại nhìn ta, một nhu cầu đổi mới văn hóa xã hội đã bắt đầu từ văn du ký nửa đầu thế kỷ XX. Theo nhận định của Lê Thiếu Nhơn, văn học Việt Nam năm 2013 chứng kiến sự lên ngôi của du ký và tạp văn. Anh nói: “Chúng ta thấy trào lưu sách viết về du ký đang trở lại với những
tác phẩm của Phan Việt, Di Li, Dương Thụy, Phương Mai. Thực ra, thể loại du ký không phải mới xuất hiện. Từ những thập niên 40 của thế kỷ trước5, học giả Phạm Quỳnh đã viết du ký. Tuy nhiên hiện nay, người Việt đang muốn một cái nhìn mới mẻ để bước ra thế giới nên rất cần thông tin và sự trải nghiệm”. Và cho biết “Rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa trên thế giới đã dự đoán thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của
văn học tự sự không dùng trí tưởng tượng, không hư cấu. Du ký là một trong những thể loại đó. Du ký là thể loại được viết từ trải nghiệm, suy ngẫm của người viết về cảnh vật, sự việc, thế thái nhân tình” (Năm 2013, du ký và tạp văn lên ngôi, báo Đà Nẵng điện tử, ngày 13-1-2014, http://www.baodanang.vn/channel/5433/201401/nam-2013-du-ky-va-tap-van-len-ngoi-2300749/). Nhận xét này phản ánh đúng thực tế văn học Việt Nam mấy năm gần đây, cho thấy sức sống tiềm tàng của văn du ký.
5 Chỗ này không chính xác.
Phân loại theo đề tài, Nguyễn Hữu Lễ chia văn du ký nửa đầu thế kỷ XX thành các loại sau: 1) đề tài lịch sử, 2) đề tài danh lam thắng cảnh, 3) đề tài quốc tế,
4) đề tài dân tộc thiểu số. Còn phân loại theo cảm hứng, tác giả này chi thành mấy loại: 1) cảm hứng viễn du, 2) cảm hứng văn hóa và lịch sử, 3) cảm hứng tâm linh, 4) cảm hứng trữ tình, 5) cảm hứng thế sự [103].
Tuy nhiên, trên thực tế, nội dung của văn du ký rất phong phú, khó có thể dùng 4 nhóm đề tài như trên mà bao quát hết được (ví dụ cô Nguyễn thị Kiêm đi xuyên Việt ra Hà Nội và Hải Phòng để diễn thuyết về nữ quyền không thuộc loại nào), hoặc một thiên du ký lại có thể xếp vào hai ba loại khác nhau (Ví dụ Pháp du hành trình nhật ký có thể xếp cả vào đề tài quốc tế, cả vào đề tài viễn du). Một tác phẩm văn du ký có thể có rất nhiều cảm hứng khác nhau và có những cảm hứng mà bảng phân loại nói trên không bao quát được. Bốn năm trên đảo Các Bà của Vân Đài có nhiều cảm hứng khác nhau: nhận diện bản chất Khách trú (người Hoa) chiếm đoạt tài nguyên biển của dân ta, lãng mạn hóa cuộc sống của dân cư trên đảo biệt lập với đất liền, thể nghiệm tâm trạng phiêu lưu, đối diện với nguy hiểm. Vì thế, trong khi chờ đợi xác định được đầy đủ kho văn học du ký giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, chúng tôi tạm thời chưa phân loại.
Điểm cần chú ý là góc nhìn giới trong khi nghiên cứu văn du ký hiện đại vẫn chưa được chú ý. Những vấn đề phụ nữ đã được văn du ký phản ánh ra sao, người phụ nữ đã tham gia viết văn du ký như thế nào. Đây sẽ là một hướng nghiên cứu của luận án.
1.2.3. Du ký thế giới
Theo Từ điển mở Wikipedia (tiếng Anh), văn bản văn du ký sớm nhất hiện nay biết được là Miêu tả nước Hy Lạp của Pausania (thế kỷ II). Vào thời trung đại, văn du ký đã là thể loại phổ biến trong văn học Arap, tiêu biểu là các nhật ký hành trình của Ibn Jubayr (1145-1214) và Ibn Batuta (1304-1377). Đời Tống ở Trung Quốc cũng đã biết đến du ký. Thể loại này được người Trung Quốc gọi là “văn học du ký”, thường được viết bằng các phương thức tự sự, nhật ký, khảo cứu. Một vài tác giả tiêu biểu của văn du ký trung đại ở Trung Quốc như Phạm Thành Đại (1126-1193) với Quế Hải ngu hành chí, Từ Hà Khách (1587-1641) với Từ Hà Khách du ký.
Cũng theo từ điển mở Wikipedia, một trong những áng văn du ký vào loại sớm nhất ghi chép sự vui thích khi đi du lịch là của Petrarsh (1304-1374) chép về cuộc leo núi Ventoux của ông năm 1336. Việc leo núi để tìm hứng thú đứng trên đỉnh cao nhìn ra các ngọn núi thấp hơn còn hàm nghĩa tượng trưng cho quá trình hoàn thiện về đạo đức trong cuộc sống. Giữa thế kỷ XV, Gilles le Bouvier đã giải thích lý do ông viết tập văn du ký Livre de la description des pays (Sách kể chuyện các nước): “Vì nhiều người từ các dân tộc, các nước khác nhau có sự vui thích, khoan khoái, như tôi đã từng có, khi nhìn ngắm thế giới và sự vật trong thế giới và cũng vì nhiều người muốn biết mà không cần đi đến tận nơi, còn một số người lại muốn xem, đi, du hành nên tôi đã bắt tay viết cuốn sách nhỏ này”.
Đến thế kỷ XVIII, ở châu Âu, văn học du hành đã định hình với những cuốn sách du hành mà nội dung chính của chúng là các nhật ký hàng hải. Người châu Âu đang vươn xa ra ngoài các đại dương, bắt đầu lịch sử thực dân của họ thì tất nhiên, nhu cầu giới thiệu các xứ sở xa xôi, các miền đất, các nền văn hóa Phương Đông trở nên một nhu cầu lớn. Nhật ký của thuyền trưởng James Cook (1784) cho đến nay vẫn là một tác phẩm bestseller. Hầu hết các nhà văn Anh trong thế kỷ này đều có tham gia viết văn học du hành.
Sang thế kỷ XIX, văn học du lịch (tourism literature) thực sự-phân biệt với travel literature- mới bắt đầu. Những nhà quí tộc, giới tu sĩ, những người có tiền của bắt đầu đi du lịch châu Âu tìm hiểu nghệ thuật, kiến trúc cổ. Robert Louis Stevenson (1850-1894) là người đi tiên phong trong văn học du lịch với tác phẩm Những chuyến đi bằng lừa ở xứ Cevennes (Pháp), lần đầu tiên kể về thú đi du lịch cắm trại, dùng túi ngủ… Văn học du lịch có nội dung thám hiểm cũng bắt đầu phổ biến.
So với người Việt Nam và Phương Đông nói chung thì người châu Âu và Mỹ trong các thế kỷ XVIII, XIX, XX đi ra nước ngoài nhiều hơn. Các áng văn du ký của họ kể về các chuyến đi du lịch, thám hiểm, nghiên cứu nhiều nước trên thế giới không dừng lại ở những bài viết ngắn như văn du ký ở ta nửa đầu thế kỷ XX mà thường xuất bản thành sách (travel book). Theo Wikipedia, Samuel Johnson có Một cuộc hành trình đến các đảo vùng Tây Scotland (1775), Mary Wollstonecraft có Thư từ viết trong một chuyến di trú ngắn hạn ở NaUy, Thụy Điển, Đan Mạch (1796),