cách mạng. Giai đoạn nhượng bộ khi phong trào cách mạng của quần chúng lên cao dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản. Tuy nhiên, khi các cơn phong ba bão táp cách mạng tạm thời lắng xuống, Phổ đã ngay lập tức trở ngược vấn đề và thể hiện rõ bản chất vương triều và giai cấp hơn là quốc gia và quốc tế. Việc Friedrich Wilhelm IV từ chối ngôi vương ngày 3 tháng 4 năm 1849 cũng chính thức chấm dứt con đường cách mạng của giai cấp tư sản Đức. Chính vì th ế, Phổ đóng một vai trò sống còn đối với cuộc cách mạng của giai cấp tư sản Đức giữa thế kỷ XIX.
3.2. Hệ quả của cuộc Cách mạng 1848-1849 đối với quá trình thống nhất nước Đức giữa thế kỷ XIX
3.2.1. Sự thất bại của con đường cách mạng của các giai cấp công nghiệp
Cuộc Cách mạng 1848-1849 đã gần như hạ gục giai cấp tư sản Đức. Sân khấu chính tr ị Đức sau đó, do vậy, thuộc về lực lượng cánh hữu của quý tộc phong kiến và các lực lượng cánh tả của quần chúng lao khổ. Bộ phận sau chủ yếu gồm nông dân, công nhân, và một bộ phận trí th ức tiểu tư sản hoặc tư sản thất thế trong cuộc Cách mạng 1848-1849. Mặc dù giới bình dân chi ếm số đông trong dân cư, nhưng con đường cách mạng của họ đang gặp thách thức trên hai phương diện.
Khủng hoảng mô hình: có một sự tương thích giữa sự tăng trưởng của công nghiệp và hiện đại hóa chính tr ị bằng cách củng cố các thể chế tự do dân chủ, nhưng điểm đặc thù của lịch sử nước Đức thế kỷ XIX là các điều kiện tiền công nghiệp đã cản trở sự phát triển của các thể chế chính tr ị hiện đại. Vì th ế, quá trình hi ện đại hóa về chính tr ị ở Đức đã thất bại trong việc theo kịp nhịp độ phát triển của quá trình công nghiệp hóa. Chừng nào mà điều kiện ấy vẫn còn tồn tại, quá trình dân ch ủ hóa các mối quan hệ xã hội sẽ vẫn còn xa lánh nước Đức [156, tr. 16] tương đối dài.
Ở Phổ, quá trình công nghi ệp hoá cho thấy các xu hướng phát triển khác biệt mang tính giai c ấp của giới tư sản và phong kiến trong các vấn đề mấu chốt. Sự chia rẽ này trở nên có tính ch ất quyết định trong các thất bại liên tiếp và đồng thời của các đòi hỏi chính tr ị mang màu sắc tư sản và củng cố sức mạnh kinh tế của Phổ sau Cách mạng 1848-1849 [103, tr. 53-54]. Điều này làm cho các chi ến thắng tạm thời của giới tư sản không vượt qua được các lực lượng phản cách mạng được vũ trang của chủ nghĩa quý tộc độc đoán trước tháng 3 năm 1848. Chính s ự yếu đuối và thất
bại của giai cấp tư sản cách mạng trong lịch sử tiến hoá của dân tộc Đức là lý do được dùng để kiến giải cho sự suy yếu của giới tư sản Đức thế kỷ XIX.
Từ đó trở đi, nước Đức được cho là thiếu hẳn một cuộc cách mạng tư sản khi so sánh với các nước khác ở Tây  u. Giai cấp tư sản Đức được xem như là một giai cấp tư sản bạc nhược và chưa phát triển thuần thục, vì nó đã thất bại trong vai trò của một giai cấp xã hội. Thay vì nh ận ra những lợi ích thi ết yếu trong cuộc đấu tranh chống lại giới quý tộc phong kiến lỗi thời, giới tư sản Đức giữa thế kỷ XIX lại ưu tiên lựa chọn phương án thỏa hiệp toàn diện với các vương triều phong kiến như một biểu hiện của sự đầu hàng trong quá trình th ống nhất nước Đức (1848-1871).
Giới tư sản Đức giữa thế kỷ XIX, vì th ế, được cho là đã tự cho phép chính h ọ trở thành các lực lượng lệ thuộc vào các tầng lớp tinh hoa thống trị tiền công nghiệp và đã thất bại hoàn toàn trong việc thiết lập các hình th ức cơ bản nhất của một nhà nước dân tộc hiện đại. Điều đó đã cho phép họ tự đồng hóa chính mình vào cái h ệ thống giá trị lỗi thời của những người quý tộc hách dịch đang trên đà suy thoái. Điều này đã trì hoãn quá trình ti ến bộ đáng lẽ ra đã bắt đầu với tốc độ nhanh hơn và với một cường độ mạnh mẽ hơn nhiều ở nước Đức giữa thế kỷ XIX [56, tr. 14, 398].
Thất bại của Đức trong việc hiện đại hóa hệ thống chính tr ị thời Đế chế Đức thứ hai (1871-1918) và xây dựng một sự đồng thuận dân chủ đủ mạnh thời Cộng hòa Weimar được cho là có nguồn gốc sâu xa từ các thất bại rất đáng châm biếm trong cuộc Cách mạng 1848-1849 với sự sống sót của các truyền thống tiền công nghiệp. Xã hội Đức đến tận Thế chiến thứ hai, do đó, được xem là một xã hội hiện đại không hoàn hảo [156, tr. 7, 9]. Cuộc Cách mạng 1848-1849 ở Đức, vì th ế, cũng được xem là một cuộc cách mạng tổng lực của quảng đại quần chúng lao khổ hơn là một cuộc cách mạng tư sản đơn thuần như những gì đã diễn ra ở các nước phương Tây khác trước đó.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Khả Năng Giải Quyết Vấn Đề Nước Đức Giữa Thế Kỷ Xix
- Khả Năng Dân Tộc Của Các Nhà Nước Thành Viên Trong Lb Đức 1815-
- Vương Quốc Phổ Với Quá Trình Thống Nhất Nước Đức (1848-1871)
- Vương Quốc Phổ Với Quá Trình Thống Nhất Nước Đức 1864-1871
- Chiến Tranh Pháp-Phổ Và Quá Trình Hoàn Thành Thống Nhất Nước Đức 1870-1871
- Nguyên Nhân Thắng Lợi Của Quá Trình Thống Nhất Nước Đức (1848-
Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.
Về mặt bản chất giai cấp, giới tư sản Đức được cho là vẫn chưa sẵn sàng cho sứ mệnh của một giai cấp thống trị trong Cách mạng 1848-1849. Họ trở nên bất lực một cách tội nghiệp trong tất cả các vấn đề cần đến họ với tư cách là một giai cấp lãnh đạo [61, tr. 3]. Đây được xem là một hệ quả của tâm lý lệ thuộc và tôn kính
viễn vông của giới tư sản vào giới quý tộc. Thất bại trong việc thống nhất đất nước trong Cách mạng 1848-1849 đã ảnh hưởng có tính ch ất quyết định đến sự hình thành của quốc gia nhà nước Đức năm 1871 trên rất nhiều phương diện. Giai cấp tư sản Đức đáng lẽ ra phải là đầu tàu cho quá trình ti ến lên hiện đại của cả dân tộc trên tất cả các lĩnh vực lại không đủ khả năng để phát triển một chương trình hiện đại hóa có ý thức và bản sắc riêng của giai cấp và dân tộc mình.
Cuộc Cách mạng 1848-1849 vì th ế chỉ là sự bắt đầu cho các thảm họa của nước Đức thế kỷ XX. Sự thoả hiệp của giai cấp tư sản với giới quý tộc phong kiến bảo thủ được coi là một trong những tiền đề dẫn đến con đường đặc biệt của nước Đức thế kỷ XIX [75, tr. 5-15]. Tại sao giới tư sản Đức không chinh phục quyền lực chính tr ị mà lại cư xử theo một phong cách hèn nhát đến vậy trong cuộc đấu tranh chống lại chính ph ủ [61, tr. 4] những năm 1848-1849? Điều đó được cho là có nguồn gốc sâu xa từ những thất bại đầu đời quá cay đắng đã phủ bóng tủi nhục lên suốt tiến trình l ịch sử tiến hoá của giai cấp tư sản Đức trong các chặng đường phát triển tiếp theo.
Tóm lại, cái giả định rằng nước Đức không có một cuộc cách mạng tư sản trong thế kỷ XIX đã cấu trúc hiểu biết của chúng ta về quá khứ của người Đức như một định kiến rất khó thay đổi. Điều này hoàn toàn phù h ợp với vị trí l ệ thuộc của giới tư sản nước này trong tiến trình th ống nhất nước Đức giữa thế kỷ XIX và buộc phải rời bỏ vũ đài chính trị nước Đức nửa sau thế kỷ XIX. Cùng lúc đó, giới quý tộc phong kiến không những củng cố được vị thế vốn có của mình, mà còn làm chủ tình hình để đưa quá trình thống nhất nước Đức (1848-1871) đi theo quỹ đạo của riêng mình v ới tư cách là phương án duy nhất không thể khác được. Thất bại của giai cấp tư sản và thắng thế của giới quý tộc phong kiến Phổ trong quá trình th ống nhất nước Đức (1848-1871) đã để lại những hệ quả hết sức nghiêm trọng về sau không chỉ đối với lịch sử nước Đức nói riêng, mà còn đối với cả lịch sử nhân loại nói chung.
3.2.2. Sự phục hồi của chủ nghĩa dân tộc quý tộc phong kiến
Điểm mấu chốt của quá trình th ống nhất nước Đức (1848-1871) nằm ở chỗ là khác với nhiều nơi trên thế giới, các lực lượng lao khổ bình dân và gi ới tư sản đang lên thường giành thắng lợi trước các thế lực mang màu sắc vương triều để thiết lập
các thể chế quyền lực của cộng đồng cho số đông quần chúng phi quý tộc. Tuy nhiên, hiện tượng này không xảy ra trong quá trình ti ến lên hiện đại ở nước Đức thế kỷ XIX. Xét một cách tổng quát, điều này một mặt là do các thế lực quý tộc thủ cựu ở Đức có một sức mạnh tổng hợp lớn hơn hẳn các thế lực phi quý tộc ít nh ất cho đến ngày kết thúc Thế chiến thứ nhất. Mặt khác là sự bất lực và yếu đuối của các thế lực phi quý tộc trong việc tổ chức và tập hợp lực lượng trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi để chống lại giới quý tộc phong kiến.
Một điều bất lợi đối với giới phi quý tộc và cũng chính là thuận lợi đối với giới quý tộc là việc cầm quyền trong thế bị chia cắt của các vương triều phong kiến. Sự chia cắt thành nhiều nhà nước nhỏ bé cho phép giới quý tộc phong kiến có điều kiện kiểm soát các khu vực họ sở hữu ở mức độ tối đa nhất có thể. Điều này hoàn toàn phù hợp với một quy luật mang tính ph ổ quát của toàn nhân loại là ở đâu giới quý tộc phong kiến mạnh thì ở đó giới phi quý tộc yếu đuối và ngược lại. Giai cấp tư sản Đức bị chết yểu trong cuộc Cách mạng 1848-1849. Sứ mệnh lịch sử dẫn dắt nước Đức trên con đường tiến lên hiện đại từ đó được trao vào tay vương triều Phổ một cách tự nguyện. Phổ là ví d ụ đầu tiên của một loạt các nhà nước đã thực hiện thành công việc đổi mới nền kinh tế theo định hướng thị trường trong một điều kiện chính tr ị còn thiếu dân chủ nghiêm trọng [162, tr. 12]. Kết quả là nền nông nghiệp Phổ không ngừng phát triển, nhưng các thể chế chính tr ị của một nền dân chủ hiện đại của nước này lại không phát triển tương ứng ở nông thôn. (Xem Phụ lục 11).
Sự phát triển này cho phép Phổ thể hiện tham vọng của mình trong Liên minh Erfurt với Hannover và Sachsen năm 1849 [180, tr. 419-431] mà không có sự tham gia của Á o. Tuy nhiên, các áp l ực ngoại giao ngày càng gia tăng từ Á o và Nga buộc Phổ phải từ bỏ ý định này trong một cuộc họp ở thị trấn Olmütz vùng Moravia và đồng ý khôi phục lại LB Đức 1815-1866 của Á o tháng 11 năm 1850. Điều này cho phép Johann Gustav Droysen kết luận rằng vấn đề nước Đức giữa thế kỷ XIX không phải là một vấn đề hiến pháp đơn thuần mà là một vấn đề quyền lực [155]. Trong hoàn cảnh đó, bộ phận thiểu số quý tộc có xu hướng đổi mới không đủ khả năng và tiềm lực thực tế để chống lại các lực lượng phản cách mạng một cách hiệu quả. Đó là một thực tế thương đau, nhưng có tính chất quyết định đối với tiến trình
tiến lên hiện đại của nước Đức sau đó mà tính n ửa vời của cuộc Cách mạng 1848- 1849 được cho chính là kh ởi đầu cho các thảm họa của nước Đức trong thế kỷ XX.
Như vậy, sau cuộc Cách mạng 1848-1849, giới quý tộc phong kiến châu  u về cơ bản đã tái thiết lập lại cơ cấu quyền lực và vị thế thống trị của họ như trước. Tuy nhiên, bản chất của mô hình ph ục hưng này không còn nguyên vẹn. Mặc dù các thế lực cách mạng không đạt được mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người như mong ước, nhưng các làn sóng cách mạng của quần chúng đã giáng một đòn nặng nề vào hệ thống chính t rị thủ cựu của các giai cấp phong kiến còn sót lại ở châu  u. Ý thức cách mạng và các lực lượng dân chủ ngày càng gia tăng. Mặc dù về hình th ức, các tàn dư của chế độ phong kiến được phục hồi, nhưng về bản chất quá trình hi ện đại hoá của các nước là không thể đảo ngược. Những năm sau Cách mạng 1848-1849, chính vì v ậy, là sự lên ngôi của chủ nghĩa quân phiệt Phổ ở Đức. Các lực lượng dân tộc chủ nghĩa và tự do chủ nghĩa bị đánh bại cơ bản khi các vương triều phong kiến được tái lập gần như khắp nơi ở châu Âu sau năm 1850.
3.2.3. Sứ mệnh lịch sử của Vương quốc Phổ
Sau khi tất cả các phương án giai cấp đã bất lực trong việc giải quyết vấn đề nước Đức thế kỷ XIX trong Cách mạng 1848-1849, vấn đề thống nhất nước Đức (1848-1871) chuyển sang một hướng mới. Đó là cuộc đấu tranh giữa các nhà nước trong phạm vi LB Đức 1815-1866 cho vị trí lãnh đạo thế giới nói tiếng Đức và giải quyết phạm vi ảnh hưởng ở Trung  u với các cường quốc châu  u có các lợi ích không thể từ bỏ. Vấn đề này được chuẩn bị trong một thời gian tương đối dài cùng sự nổi lên của nhiều nhân tố mới đến từ cả bên trong lẫn bên ngoài. Tiêu bi ểu nhất trong số này chính là s ự vươn lên một cách vững chắc của Phổ, sự xuất hiện của Bismarck, và cuối cùng được thực hiện qua ba cuộc chiến tranh trong một thời gian tương đối ngắn dưới sự lãnh đạo của Bismarck. Phần này sẽ phân tích s ứ mệnh lịch sử của Phổ trong quá trình th ống nhất nước Đức (1848-1871) trong bối cảnh đó.
Đối với các lực lượng cách mạng, ngày 18 tháng 5 năm 1848, QHQGF họp phiên đầu tiên, nhưng nhanh chóng bị chia rẽ bởi phương án tiểu Đức và đại Đức. Năm 1849, QHQGF trao vương miện hoàng đế cho vua Phổ, nhưng bị từ chối. Mặc dù cuộc Cách mạng 1848-1849 là một thất bại của chủ nghĩa dân tộc ở Đức, nhưng
nó đã tạo ra các cơ sở vững chắc cho một nước Đức thống nhất về sau. Ảnh hưởng của QHQGF đối với quá trình th ống nhất nước Đức (1848-1871), chính vì th ế, là không thể tránh khỏi, nhưng quyết định của vương triều Phổ mang tính s ống còn.
Mặc dù có một tiếng nói quyết định đối với giới tư sản, nhưng Phổ chưa thể tự quyết định tất cả mọi vấn đề trong Liên minh Erfurt (1849-1850). Các vấn đề nội bộ sau đó đã đưa Phổ rẽ sang một hướng khác với sự xuất hiện của Bismarck ngày 23 tháng 12 năm 1862. Bismarck không xem toàn bộ nước Đức là tổ quốc của mình mà chỉ là Phổ. Với Bismarck, quan trọng nhất vẫn là nhiệm vụ, nghĩa vụ, mệnh lệnh, và nỗi sợ với Chúa. Ý tưởng về một nước Đức thống nhất hình thành r ất muộn trong ông, nhưng cũng chỉ là một công cụ để tăng cường sức mạnh cho Phổ theo các nguyên tắc của chính tr ị thực tiễn chứ không phải nguyên tắc ý thức hệ.
Mục tiêu của Bismarck gần giống với chủ nghĩa yêu nước của Phổ hơn là chủ nghĩa dân tộc của Đức. Năm 1863, Bismarck thuyết phục vua Phổ không nên tham dự Hội nghị các hoàng tử do Francis Joseph của Á o tổ chức tại Frankfurt am Main. Ông đã gia hạn Liên minh thuế quan, nhưng từ chối sự tham gia của Á o. Phương pháp làm việc của Bismarck về cơ bản là một người gây rối bằng cách sử dụng các sự kiện như nó diễn ra để theo đuổi mục tiêu của mình. Chiến thuật của ông là cô lập các đối thủ thông qua việc sử dụng các kỹ năng ngoại giao, nhưng lại tỏ ra thân thiện với các đồng minh tiềm năng của đối thủ. Một trong những thành công nữa của Bismarck là đã sử dụng một cách có hiệu qủa sức mạnh quân sự của Phổ trong các cuộc chiến tranh để giải quyết vấn đề của mình , vì nước Đức không mong đợi gì vào ch ủ nghĩa tự do của Phổ mà là sức mạnh của Phổ.
Mặc dù phản đối quá trình th ống nhất trong giai đoạn đầu, nhưng sau khi thoả hiệp với giới tư sản tự do, Bismarck thấy rằng đó là một quá trình t ất yếu đến mức giới bảo thủ phải nắm quyền lãnh đạo quá trình l ập quốc để tránh việc nó bị bỏ quên. Trong khi đó, giới tư sản tự do lại muốn một nước Đức thống nhất hơn là muốn thắt chặt các mối quan hệ ràng buộc với các lực lượng truyền thống trong xã hội. Bismarck từ đó rẽ sang phương án thống nhất nước Đức dưới sự lãnh đạo của Phổ và tiến hành các cuộc chiến tranh để đạt được mục tiêu này.
Đối với các lực lượng dân tộc và nhà nước: Bismarck nhận ra rằng để thống nhất nước Đức phải kích động một nước bên ngoài gây chi ến với một trong các nhà nước Đức để tất cả các nhà nước nói tiếng Đức còn lại bị đặt vào một tình huống phải đứng về phía người Đức. Ý tưởng này được đưa vào hành động thực tiễn khi Phổ phải quyết chiến với Đan Mạch năm 1864. Cuộc chiến tranh với Đan Mạch năm 1864 với sự giúp sức của Á o là nỗ lực đầu tiên trong chuỗi dây chuyền này. Sự kết hợp giữa sức mạnh quân sự của Phổ và khả năng lãnh đạo của Bismarck đã dẫn đến việc sáp nhập lần lượt cả Schleswig năm 1864 lẫn Holstein năm 1866 vào Phổ và đưa nước này trở thành một nhà lãnh đạo của chủ nghĩa dân tộc Đức sau cuộc chiến tranh với Áo năm 1866. Đan Mạch bị đánh bại toàn diện và nhanh chóng từ bỏ các mục tiêu của mình trong v ấn đề nước Đức giữa thế kỷ XIX.
Sự thù địch giữa Á o và Phổ đã tăng lên hàng thập kỷ, nhưng sự chia cắt trong hệ thống hành chính c ủa Schleswig và Holstein lại trở thành ngòi nổ cho cuộc Chiến tranh Á o-Phổ năm 1866, nơi Phổ nhận được sự ủng hộ của Ý và các nhà nước Bắc Đức cũng như sự trung lập của Pháp và Nga. Việc Ý bị thuyết phục để chống lại sự can thiệp của Á o ở miền Bắc nước này chính là m ột sáng tạo trong chính sách ngo ại giao của Bismarck. Bối cảnh lịch sử này dẫn đến sự gia tăng căng thẳng giữa Á o và Phổ về vấn đề Schleswig-Holstein và sự bùng phát của cuộc Chiến tranh Á o-Phổ năm 1866. Đó là một cơ hội để Phổ thể hiện sức mạnh của mình trong cu ộc chiến tranh với Áo và các nhà nước nói tiếng Đức còn lại.
Áo hoàn toàn bị đánh bại tại Sadowa năm 1866 và điều này đã đưa Phổ trở thành một trong các thế lực chủ chốt ở châu  u từ đó về sau. Chiến thắng của Phổ đã loại bỏ Á o ra khỏi đời sống chính tr ị của nước Đức. Nhân cơ hội đó, Friedrich Ludwig Wilhelm I muốn chiếm toàn bộ lãnh thổ của Áo, nhưng Bismarck đã ngăn cản ý tưởng đó, vì theo ông Á o không nên có m ột vai trò nào trong vấn đề nước Đức nữa, nhưng vẫn còn giá trị của một đồng minh trong tương lai. Bismarck cũng đã sử dụng cơ hội chiến thắng này để kết thúc cuộc xung đột với Hạ viện Phổ. Giới tư sản chấp nhận ý tưởng của ông với hy vọng có thêm nhiều tự do về sau.
LB Đức 1815-1866 bị giải thể như một phần của cuộc chiến. Năm 1866, Phổ thống nhất các bang phía B ắc thành LB Bắc Đức. Phổ không chỉ chiếm phần lớn
diện tích và dân s ố của toàn bộ liên bang mới, mà còn nắm gần như tất cả mọi quyền lực của liên bang trong một quốc hội gồm hai viện. Thượng viện được chỉ định bởi vua Phổ thực tế mạnh hơn Hạ viện. Phổ chiếm 17 trong tổng số 43 phiếu và gần như nắm quyền kiểm soát chính quy ền trung ương trong toàn liên bang. Các nhà nước độc lập còn lại ở miền Nam nước Đức cũng bị đặt vào tình th ế buộc phải chấp nhận các liên minh quân s ự với Phổ. Các thành tựu này đã đưa phương án tiểu Đức của Bismarck gần trở thành hiện thực. Cơ sở cho Phổ có thể đảm đương được sứ mệnh lịch sử này chính là tiềm lực thực tế vượt trội của Phổ trên nhiều phương diện, trong đó đặc biệt là yếu tố nhân lực dồi dào. (Xem thêm Phụ lục 12).
Nhiệm vụ cuối cùng của quá trình th ống nhất nước Đức giữa thế kỷ XIX được thể hiện trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ 1870-1871, nơi mà Bismarck đã kích động Napoléon III phải gây chiến với Phổ trong hoàn cảnh buộc phải chia sẻ lực lượng quân sự với mặt trận Mexico từ những năm đầu thập niên 1860 và bị cô lập về mặt ngoại giao. Bằng việc vận dụng một cách khôn khéo thực tiễn chính tr ị châu  u đương thời, Bismarck đã tạo ra một tình huống mà Pháp sẽ đóng vai trò của kẻ xâm lược, còn Phổ là người bảo vệ các quyền tự do cho người Đức [73, tr. 5- 59]. Đó cũng là một cơ hội để Phổ thử thách các đồng minh người Đức về lòng trung thành của họ đối với dân tộc. Tuy nhiên, phần lớn các nhà nước Đức lúc đầu đều tỏ rõ thái độ chống lại nền chính tr ị quyền lực mang tính b ạo hành của Phổ [47, tr. 226-268]. Mặc dù vậy, thất bại của người Pháp trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ 1870-1871 đã chứng minh cho tấm thịnh tình và kh ả năng vượt trội của Phổ trong việc bảo vệ các lợi ích chung c ủa người Đức.
Trên phương diện quốc tế, trong lúc Napoléon III đang xây dựng một nước Ý độc lập, Bismarck phải cách mạng hoá nước Đức và khôi phục lại nền độc lập của Hungary, các nhà sản xuất người Anh buộc phải ban hành một bản hiến chương mới cho người dân [157], chính quân đội Phổ đã gián tiếp hoàn thành nhiệm vụ thống nhất nước Ý . Trong cuộc Chiến tranh Á o-Phổ năm 1866, Ý đứng về phía Phổ. Mặc dù quân đội Ý bị Áo đánh bại, nhưng chiến thắng của Phổ đã mang Venetia về cho người Ý. Năm 1870, sự bùng phát của cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ