Những Vấn Đề Cơ Bản Về Du Lịch‌

gắn liền với sự phát triển của các hoạt động kinh tế. Việc đi lại nhằm trao đổi hàng hóa trở thành nhu cầu thiết yếu của các chủ thể kinh tế. Thành phần tham gia vào hoạt động du lịch được mở rộng ở nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội như quý tộc và nhà thờ, thương nhân, thợ thủ công. Khi chế độ phong kiến dần dần tan rã, chuẩn bị cho sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, hoạt động du lịch cũng bắt đầu chuyển sang một giai đọan mới, mở đầu là những nước có nền kinh tế phát triển như Anh, Pháp, Đức...

Du lịch thời kỳ cổ đại chỉ liên quan đến những hoạt động vật chất thiết yếu của con người như tìm kiếm nơi ở, nơi sản xuất và trao đổi mua bán hàng hóa. Du lịch lúc này hoàn toàn chưa nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần như vui chơi, giải trí, thưởng ngoạn cảnh đẹp. Người đi du lịch lúc bấy giờ chưa trở thành đối tượng phục vụ của các ngành nghề trong nền kinh tế. Vì vậy, các hoạt động phục vụ du lịch như đón tiếp, kinh doanh lữ hành, kinh doanh lưu trú chưa xuất hiện. Du lịch chưa kích thích sự phát triển của các ngành dịch vụ khác.

1.1.2. Du lịch thời cận đại


Sự phát triển của du lịch thời kỳ này gắn liền với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nó bắt đầu giữa thế kỷ XVII đến Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Trong thời kỳ này, những thành tựu của cuộc cách mạng Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất giúp chuyển hóa lao động thủ công sang lao động có sử dụng máy móc. Sự xuất hiện của giao thông đường thủy và đường sắt giúp cho việc đi lại nhanh chóng, dễ dàng hơn với chi phí thấp, khối lượng vận chuyển tăng lên, phạm vi vận chuyển được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển.

Cách mạng công nghiệp đã đem lại sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Năng suất lao động tăng nhanh, sản phẩm xã hội tăng lên gấp nhiều lần so với trước đây, từ đó xuất hiện sản phẩm thặng dư. Bên cạnh đó, những cuộc đấu tranh của đông đảo quần chúng lao động đòi nghỉ phép có lương nhằm tăng thời gian nghỉ ngơi, tái sản xuất sức lao động, buộc các nhà tư bản phải nhượng bộ một phần cho quyền lợi của người lao động.

Bối cảnh lịch sử đó đã làm gia tăng số người đi du lịch trên thế giới. Tuy nhiên, đa số họ không có kinh nghiệm đi du lịch. Sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa,

tiền tệ … giữa các nước là những trở ngại lớn cho người đi du lịch. Thực tiễn này là động lực cho sự ra đời của các hoạt động phục vụ người đi du lịch như các đại lý lữ hành, các hãng kinh doanh du lịch.

Trong thời kỳ cận đại, du lịch dần dần trở thành ngành kinh tế độc lập, có vị trí nhất định trong nền kinh tế thế giới. Hoạt động du lịch thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành nghề khác có liên quan, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế hàng hóa phát triển, tạo việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống.

1.1.3. Du lịch thời hiện đại

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.


Khi Chiến tranh Thế giới lần thứ hai kết thúc, chính trị ổn định, kinh tế khôi phục và phát triển, thu nhập của người lao động tăng lên làm tăng khả năng chi tiêu cho các hàng hóa và dịch vụ, trong đó có du lịch. Bên cạnh đó, dân số thế giới tăng mạnh sau chiến tranh tạo tiềm năng thị trường lớn cho hoạt động du lịch. Lực lượng sản xuất phát triển mạnh, tư liệu sản xuất đạt trình độ tự động hóa cao giúp người lao động tiết kiệm thời gian lao động và có nhiều thời gian hơn cho việc nghỉ ngơi, giải trí, đi du lịch. Trình độ phân công lao động xã hội cao, chuyên môn hóa sản xuất sâu thường gây ra sự nhàm chán trong lao động nên nhu cầu thư giãn người lao động ngày càng tăng. Ngoài ra, sự phát triển giáo dục của các nước nhằm đáp ứng nguyện vọng học hỏi, nâng cao tri thức của con người; sự phát triển của hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội; sự ra đời của các công ty lữ hành chuyên tổ chức các chuyến du lịch trọn gói với giá rẻ cũng là những động lực khuyến khích mọi người đi du lịch nhiều hơn.

Vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Bình Thuận trong giai đoạn 2001-2020 - 3

Du lịch thời hiện đại có những đặc điểm nổi bật sau :


Sự phát triển của du lịch hiện đại hướng đến mọi tầng lớp dân cư, trong đó có đông đảo quần chúng nhân dân. Nếu người đi du lịch trong thời kỳ cổ đại và cận đại chủ yếu là tầng lớp quý tộc hay thương gia thì du lịch thời hiện đại đã mở rộng sang các tầng lớp nhân dân lao động. Tính đại chúng là đặc điểm nổi bật nhất của du lịch hiện đại.

Sự phát triển của du lịch hiện đại ngày càng quy phạm hóa. Dưới sự tổ chức, sắp xếp của các công ty lữ hành chuyên nghiệp, các chương trình du lịch trọn gói có

quy định sẵn về thời gian, địa điểm, phương tiện, tuyến đường và nội dung hoạt động. Từ đó, du khách có thể lựa chọn các chương trình phù hợp với sở thích và khả năng thanh toán của mình.

Sự phát triển của du lịch hiện đại ngày càng đa dạng hóa. Hoạt động du lịch trong thời kỳ đầu là thương mại, giáo dục, tôn giáo tuy tồn tại rất lâu đời nhưng phát triển không đáng kể. Cùng với sự phát triển của xã hội và sự tiến bộ về văn minh vật chất lẫn văn minh tinh thần của loài người, du lịch tham quan, nghỉ dưỡng, chữa bệnh dần dần phổ biến trong thời đại ngày nay, làm phong phú thêm các loại hình du lịch.

Tính tổng hợp của du lịch hiện đại. Du lịch hiện đại gồm nhiều nội dung hoạt động như đi lại, ăn uống, vui chơi, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, mua sắm … Một mặt, khi du khách lịch tiêu dùng các hàng hóa và dịch vụ du lịch không chỉ đơn thuần để thỏa mãn các nhu cầu về ăn, ở, đi lại … mà hơn thế, họ muốn hưởng thụ những nét tinh hoa văn hóa của nhân loại, muốn tìm hiểu các giá trị nhân văn của các quốc gia, dân tộc thông qua các hoạt động du lịch. Mặt khác, hoạt động du lịch cũng liên quan đến các lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội … Sự phát triển của nó phụ thuộc vào sự phát triển tổng hợp của các ngành nghề, đồng thời liên hệ chặt chẽ với các ngành nghề liên quan, từ đó hình thành hoạt động kinh tế, xã hội mang tính tổng hợp.

Trong thời hiện đại, du lịch đã trở thành nhu cầu thường xuyên của người lao động. Hoạt động du lịch đã phát triển với trình độ cao và thể hiện đầy đủ vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia có tiềm năng du lịch. Du lịch tạo vốn cho sự phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động, đóng góp vào ngân sách quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, tạo điều kiện mở rộng hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa, chính trị giữa các nước …

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DU LỊCH‌


1.2.1. Khái niệm du lịch


Du lịch là một hiện tượng kinh tế, xã hội ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển của đời sống xã hội loài người. Xã hội càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng đa dạng. Bên cạnh những nhu cầu vật chất thiết yếu, nhu cầu tinh thần như học tập, tham quan, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, thu thập thông tin … ngày càng quan trọng trong cuộc sống hiện đại. Du lịch hiện đại bắt đầu từ thế kỷ XIX cùng với sự phát triển của nền văn minh công nghiệp. Đặc biệt là sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng, có tốc độ tăng trưởng cao. Vì vậy, khái niệm du lịch cũng có nhiều thay đổi và là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học.

Theo định nghĩa của Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Ottawa, Canada diễn ra và tháng 6 năm 1991 : “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi nào ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở của mình) trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”. [27,19]

Trên cơ sở phân tích các thuộc tính của hoạt động du lịch, các chuyên gia du lịch Trung Quốc đưa ra định nghĩa du lịch : “Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội nhất định, là sự tổng hòa tất cả các quan hệ và hiện tượng do việc lữ hành để thỏa mãn mục đích chủ yếu là nghỉ ngơi, tiêu khiển, giải trí và văn hóa nhưng lưu động chứ không định cư mà tạm thời cư trú của mọi người dẫn tới”. [12,13]

Ở Việt Nam, khái niệm du lịch được nêu trong Pháp lệnh Du lịch Việt Nam công bố ngày 20/02/1999 như sau : “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.” [19, 2]

Từ các khái niệm trên về du lịch, có thể nhận thấy du lịch có các nội dung cơ bản sau :

Nơi thực hiện hoạt động du lịch nằm ngoài nơi cư trú thường xuyên của người

đi du lịch.

Hoạt động du lịch chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định và ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước.

Hoạt động du lịch không nhằm mục đích kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm.


1.2.2. Du khách


1.2.2.1. Khái niệm du khách


Theo cách hiểu đơn giản nhất thì du khách là người đi du lịch, là chủ thể làm phát sinh hoạt động du lịch nên khái niệm du khách xuất hiện đồng thời với hoạt động du lịch. Tuy nhiên, trong thời kỳ cổ đại và cận đại, hoạt động du lịch mang tính tự phát, chưa phát triển thành một ngành kinh tế độc lập nên khái niệm này chưa được quan tâm nghiên cứu. Trong xã hội hiện đại, du lịch đã phát triển thành một ngành kinh tế với trình độ chuyên môn hóa cao, đạt tốc độ tăng trưởng nhanh và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Hơn nữa, du khách là đối tượng phục vụ của hoạt động kinh doanh du lịch nên khái niệm du khách trở thành nội dung nghiên cứu của khoa học du lịch.

Vào cuối thế kỷ XVIII ở châu Âu, du khách được hiểu là những người thực hiện những cuộc hành trình lớn trên đất liền. Đến đầu thế kỷ XX, du khách được xem là hành khách xa hoa ở lại theo ý thích, ngoài nơi cư trú thường xuyên để thỏa mãn những nhu cầu sinh hoạt cao cấp mà không theo đuổi các mục đích kinh tế.

Giáo sư Khadginiclolov – nhà khoa học nổi tiếng về du lịch của Bulgarie – đưa ra định nghĩa về du khách : “Du khách là người hành trình tự nguyện với những mục đích hòa bình. Trong cuộc hành trình của mình, họ đi qua những chặng đường khác nhau và thay đổi một hoặc nhiều lần nơi cư trú của mình.” [27,22]

Các định nghĩa trên còn phiến diện, chưa phản ánh đầy đủ nội dung của khái niệm du khách. Từ sự tổng hợp các định nghĩa về du khách trước đó, các học giả hiện đại về du lịch đã đưa ra định nghĩa về du khách như sau : “Du khách là người rời khỏi môi trường tạm trú tới các nước khác, nơi khác ở lại tối thiểu là 24 giờ, tiến hành đi lại, ăn ở, du ngoạn, vui chơi, giải trí, mua sắm nhằm đạt được sự hưởng thụ về tinh thần và vật chất.” [12,106]

Theo Pháp lệnh Du lịch Việt Nam năm 1999, “Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”. [19,2]

1.2.2.2. Phân loại du khách


Có nhiều cách phân loại du khách như phân loại theo phạm vi khu vực, phân loại theo mục đích du lịch, theo nội dung hoạt động, theo tuổi tác, phương thức chi tiêu, hình thức tổ chức … Luận văn chỉ trình bày nội dung của hai cách phân loại phổ biến là phân loại theo phạm vi khu vực và phân loại theo mục đích du lịch.

Phân loại theo phạm vi khu vực, có hai loại là du khách quốc tế và du khách trong nước.

(1) Du khách quốc tế :


Ủy ban Thống kê chuyên gia liên minh quốc tế năm 1937 đưa ra định nghĩa về du khách quốc tế như sau : “Du khách quốc tế là người rời khỏi nước định cư của mình tới thăm viếng một nước khác tối thiểu 24 giờ”. [12,106].

Từ định nghĩa trên, tổ chức này quy định, ba nhóm người dưới đây thuộc du khách quốc tế :

Một là, người đi ra nước ngoài du hành vì nguyên nhân tiêu khiển, việc gia

đình và sức khỏe bản thân.


Hai là, người đi ra nước ngoài lữ hành, để tham gia hội nghị hoặc là đại biểu công vụ.

Ba là, người đi ra nước ngoài vì mục đích nghiệp vụ thương mại.


(2) Du khách trong nước :


Có nhiều định nghĩa khác nhau về du khách trong nước, nhưng định nghĩa được sử dụng phổ biến nhất là của Hội nghị công tác thống kê du lịch quốc tế do Liên hiệp quốc và chính phủ Canada liên hợp triệu tập ở Ottawa năm 1991: “Bất cứ một người tới một nơi nào đó ngoài môi trường thường trú của mình ở trong nước mà mình thường trú để thực hiện lữ hành trong thời hạn không quá 12 tháng, mục đích chủ yếu không phải là theo đuổi các hoạt động nhằm thu được thù lao ở nơi đó.” [12,109]

Phân loại theo mục đích du lịch, có ba loại du khách sau đây :


(1) Du khách tiêu khiển : Loại du khách này chủ yếu theo đuổi việc hưởng thụ, họ là chủ thể của du khách quốc tế hiện nay, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong số du khách đi du lịch nước ngoài. Đặc điểm chủ yếu của nó là tính thời vụ du lịch mạnh, tính biến đổi hành trình du lịch lớn, thời gian lưu lại lâu, có yêu cầu tương đối cao về các giá trị nhân văn của sản phẩm du lịch.

(2) Du khách đi công tác : Đây là loại du khách chiếm vị trí quan trọng trong nguồn khách của thị trường du lịch thế giới. Đối với loại du khách này, động cơ du lịch, mục đích du lịch, thời gian lưu lại, việc lựa chọn phương tiện giao thông đều được quyết định bởi nhu cầu công việc. Đặc điểm chủ yếu của nó là số lần đi nhiều, tính hạn định về mục đích du lịch và thời gian viếng thăm lớn, mức chi tiêu cao.

(3) Du khách gia đình và việc riêng : đặc điểm của loại du khách này là thời gian lưu lại ngắn, khả năng chi trả và mức chi tiêu thấp nên rất nhạy cảm với giá cả.

1.2.3. Sản phẩm du lịch


1.2.3.1. Khái niệm sản phẩm du lịch


Sản phẩm du lịch là khái niệm dùng để chỉ những hàng hóa dịch vụ mà nhà kinh doanh du lịch cung cấp cho du khách nhằm thỏa mãn sự hưởng thụ về tinh thần cho du khách. Trong chuyến du lịch của mình, du khách được tiêu dùng nhiều dịch vụ khác nhau như đi lại, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, tham quan cảnh đẹp … Khi du khách mua các sản phẩm du lịch không có nghĩa là họ mua căn phòng trong khách sạn, một bữa cơm hay khối lượng vật chất của một cảnh quan du lịch mà là tổng hợp những hạng mục ấy một lần trong chuyến du lịch của mình. Sản phẩm du lịch hoàn chỉnh do nhiều hạng mục sản phẩm du lịch hợp thành. Mỗi hạng mục ấy thường do các doanh nghiệp hoặc các bộ phận trực thuộc của một số ngành nghề nhưng độc lập với nhau cung cấp. Vì vậy, để thỏa mãn một cách tốt nhất nhu cầu của du khách, các hạng mục này phải được kết hợp chặt chẽ với nhau. Đó cũng là nguyên nhân khách quan của sự ra đời của các công ty lữ hành chuyên nghiệp và sự xuất hiện của các dịch vụ du lịch trọn gói.

Nội dung của cơ cấu sản phẩm du lịch rất phong phú, đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề và được phân chia thành ba nhóm yếu tố : vật thu hút du lịch, cơ sở du lịch và dịch vụ du lịch.

(1) Vật thu hút du lịch : Đó là những sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội mà người kinh doanh du lịch có thể khai thác để thu hút du khách nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cho mình như danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và cả lễ hội truyền thống. Vật thu hút du lịch chính là cơ sở vật chất để phát triển hoạt động du lịch.

(2) Cơ sở du lịch là điều kiện vật chất để phát triển ngành du lịch. Đó là các phương tiện vận chuyển, cơ sở lưu trú, các thiết bị hỗ trợ trong hoạt động kinh doanh du lịch do các đơn vị kinh doanh du lịch và nhà nước đầu tư xây dựng. Cơ sở du lịch có thể chia làm hai loại : cơ sở cơ bản du lịch trực tiếp phục vụ du khách và cơ sở hạ tầng du lịch cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp và bộ phận du lịch trong hoạt động kinh doanh du lịch.

(3) Dịch vụ du lịch : là hạt nhân của sản phẩm du lịch, có vai trò quyết định chất lượng sản phẩm du lịch. Việc thực hiện nhu cầu chi tiêu của du khách không thể tách rời các dịch vụ mà người kinh doanh du lịch cung cấp. Chất lượng của sản phẩm du lịch phụ thuộc vào chất lượng của từng hạng mục dịch vụ du lịch đơn lẻ và sự kết hợp giữa các hạng mục ấy. Mức độ hài lòng của du khách đối với sản phẩm du lịch phần lớn được quyết định bởi chất lượng của dịch vụ du lịch. Nói cách khác, thái độ và phong cách phục vụ du khách có vai trò quyết định mức độ hài lòng của du khách.

1.2.3.3. Hai thuộc tính của sản phẩm du lịch


Sản phẩm du lịch là một loại hàng hóa, cũng như các loại hàng hóa khác, nó có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Tuy nhiên, sản phẩm du lịch là hàng hóa đặc biệt nên hai thuộc tính của sản phẩm du lịch cũng có những nét đặc trưng so với các hàng hóa khác.

Giá trị sử dụng của sản phẩm du lịch chính là sự thỏa mãn nhu cầu có tính tổng hợp của du khách trong quá trình du lịch. Nó không những đáp ứng những nhu cầu vật chất thiết yếu như ăn, ở, đi lại của du khách mà hơn nữa, sản phẩm du lịch còn thỏa mãn những nhu cầu tinh thần như tham quan cảnh đẹp, hưởng thụ những giá trị xã hội, nhân văn, làm phong phú thêm kiến thức của du khách. Do vậy, giá trị sử

Xem tất cả 143 trang.

Ngày đăng: 15/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí