Những Vấn Đề Cơ Bản Về Ứng Phó Với Biến Đổi Khí Hậu Của Chính Quyền Địa Phương


+ Châu Mỹ

Trong những thập kỷ tới, những sông băng núi cao của các vùng nhiệt đới được dự báo là sẽ biến mất, tác động đến nguồn nước và sản xuất năng lượng thủy điện. Vào năm 2050, sa mạc và mặn hóa được dự báo tác động đến 50% đất nông nghiệp, khoảng 26 triệu người sẽ có thể có nguy cơ bị thiếu đói (không tính đến tác động của CO2). Sự tuyệt chủng 24% của 138 loài cây gỗ của vùng savan Trung Brazil có thể gây ra gia tăng nhiệt độ bề mặt. Rừng nhiệt đới trên vùng núi cao sẽ bị đe dọa nếu nhiệt độ tăng lên từ 10C đến 20C. Nhiệt độ nóng hơn vào mùa hè sẽ làm tăng nguy cơ cháy từ 10% đến 30% và tăng diện tích bị cháy từ 74-118% tại Canada vào năm 2100 [22].

Mực NBD và các hiện tượng có liên quan do gia tăng triều cường và lũ lụt sẽ làm ảnh hưởng đến giao thông vận tải và cơ sở hạ tầng dọc theo vùng vịnh, vùng ven biển Đại Tây Dương và vùng phía Bắc. Tính dễ bị tổn thương do BĐKH có thể sẽ tập trung vào một số nhóm dân cư và khu vực cụ thể, bao gồm cả người dân bản địa và những người phụ thuộc vào nguồn tài nguyên hạn chế đặc biệt là những người nghèo và người cao tuổi ở các thành phố.

+ Châu Á

Châu Á đang chịu nhiều rủi ro vì đây là nơi có tỷ lệ người nghèo cao, trong khi việc làm, mưu sinh kiếm sống của họ có xu hướng phụ thuộc nhiều hơn vào công việc ngoài trời cũng như dễ bị tổn thương nhất khi nhiệt độ và độ ẩm tăng cao. Theo đó, tính đến năm 2050 khu vực châu Á - Thái Bình Dương có thể thiệt hại lên tới 4.700 tỷ USD mỗi năm trong GDP.

BĐKH cũng mang đến nguy cơ to lớn đối với sức khỏe con người tại châu Á và Thái Bình Dương. Hiện tại, đã có 3,3 triệu người chết mỗi năm do những tác động tiêu cực của ô nhiễm không khí ngoài trời, số ca tử vong liên quan tới nhiệt độ cao trong nhóm người cao tuổi được dự kiến tăng lên tới 52.000 ca trong năm 2050. Tình trạng thiếu lương thực có thể làm tăng số trẻ suy dinh dưỡng tại Đông Á lên đến 7 triệu trẻ. Số người tử vong do các bệnh gây ra bởi trung gian truyền bệnh như: sốt rét và sốt xuất huyết chủ yếu với tình trạng lũ lụt và hạn hán được dự báo sẽ tăng lên ở Châu Á [22].


BĐKH có thể dẫn tới tình trạng di cư ồ ạt, chủ yếu tới các đô thị khiến cho các thành phố trở nên đông đúc hơn và các dịch vụ xã hội sẵn có trở nên quá tải.

1.1.3.2. Tác động của biến đổi khí hậu tại Việt Nam

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Tại Việt Nam, trong thời gian qua, diễn biến của khí hậu cũng có những nét tương đồng với tình hình chung trên thế giới. BĐKH tác động tới môi trường sống, tới tất cả các vùng, miền và các ngành, lĩnh vực.

- Tác động của BĐKH đến môi trường sống:

Ứng phó với biến đổi khí hậu của chính quyền địa phương tỉnh Đắk Lắk - 4

Ảnh hưởng của BĐKH khiến HST rừng bị suy thoái trầm trọng, tỷ lệ rừng nguyên sinh chỉ còn khoảng 8% (so với 50% của các nước trong khu vực). Nhiệt độ tăng còn làm gia tăng khả năng cháy rừng gây thiệt hại tài nguyên sinh vật và tăng lượng phát thải KNK. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới cứ 1 mét NBD có thể ảnh hưởng tới 78 (27%) sinh cảnh tự nhiên ở những mức độ nhất định, nhiều loài động thực vật phải thay đổi nơi cư trú, nguồn thức ăn, một số loài có thể sẽ tuyệt chủng trong thế kỷ tới do tác động của BĐKH [22].

Theo dự báo BĐKH sẽ làm giảm đáng kể lượng nước trong các con sông ở nhiều vùng trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Các công trình cấp nước sạch tập trung bị hư hỏng hoặc do nguồn nước cấp bị ô nhiễm gây khó khăn cho việc xử lý nước, cung cấp nước sạch cho nhân dân. Việt Nam được xếp vào nhóm các quốc gia thiếu nước với tổng bình quân đầu người cả nước mặt và nước ngầm trên phạm vi lãnh thổ là 4.400 m3/người/năm (so với bình quân thế giới là 7.400 m3/người/năm). Sự suy thoái tài nguyên nước ngày một tăng về cả số lượng và chất lượng [22]

Trong thời gian gần đây, hiện tượng ô nhiễm do hóa chất nông nghiệp ngày càng gia tăng. Dưới tác động của BĐKH, nhất là NBD làm mất đi nơi ở của cư dân và phần đất màu mỡ nhất cho sản xuất nông nghiệp, thiên tai, bão, lũ, hạn hán gia tăng làm tăng hiện tượng xói mòn, rửa trôi, sạt lở bờ sông, bờ biển, bồi lắng long, hoang mạc hóa ảnh hưởng nghiêm trọng tới tài nguyên đất.

- Tác động của BĐKH đến một số ngành, lĩnh vực:

+ Tác động của BĐKH đến tăng trưởng kinh tế

BĐKH sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế và tạo nên các chu kỳ tăng trưởng không bền vững. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân ở các nước đang phát triển chịu tác động mạnh mẽ của BĐKH sẽ giảm từ 1% đến 2,3%/năm. Theo phân


tích của Viện Tài nguyên thế giới về ảnh hưởng của lũ lụt đến GDP, Việt Nam đứng thứ 4 trong số 164 quốc gia được khảo sát về tác hại nghiêm trọng của lũ lụt đến toàn nền kinh tế; làm thiệt hại 2,3% GDP của Việt Nam mỗi năm. Theo nghiên cứu, nếu GDP vào năm 2050 của Việt Nam đạt trên 500 tỷ USD thì thiệt hại do BĐKH có thể lên đến khoảng 40 tỷ USD, tuy nhiên con số này có thể giảm xuống nếu Việt Nam có chính sách ứng phó với BĐKH phù hợp và hiệu quả [23].

+ Tác động của BĐKH tới lĩnh vực nông nghiệp và thuỷ sản

Hiện nay, nông nghiệp của Việt Nam là ngành có tính nhạy cảm cao với BĐKH do phụ thuộc vào nhiều vào các yếu tố như thời tiết, khí hậu, đất đai, nguồn nước, …. Sự bất thường của khí hậu làm gia tăng dịch bệnh, dịch hại dẫn đến giảm sút năng suất mùa màng và ảnh hưởng nghiêm trọng tới chăn nuôi. Giai đoạn 2016-2017 nhiều nơi ở miền Nam và miền Trung khô hạn do lượng mưa thiếu hụt từ 30 - 40%, lượng dòng chảy trên các sông nhỏ dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn đến sớm hơn 1 tháng ở các vùng cửa sông miền Trung và đặc biệt ở ĐBSCL, nhiều nơi mặn đã vào sâu 80 - 100 km nguồn nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất bị suy giảm nghiêm trọng [22].

Theo dự báo, nếu mực NBD cao thêm 1m mà không có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, thì khoảng 40% diện tích ĐBSCL, 11% diện tích ĐBSH và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển sẽ bị ngập và xâm nhập mặn làm thu hẹp diện tích đất nông nghiệp. Xâm nhập mặn làm cho diện tích đất canh tác giảm, từ đó hệ số sử dụng đất có thể giảm từ 3-4 lần/năm xuống còn 1-1,5 lần/năm [22].

Đối với ngành thuỷ sản Việt Nam hiện nay có khoảng 480.000 người trực tiếp tham gia vào đánh bắt hải sản; 100.000 người làm việc ở ngành chế biến thủy sản và khoảng 2.140.000 người tham gia vào các dịch vụ nghề cá [22]. Nuôi trồng thuỷ sản ở vùng ven biển được coi là ngành có tăng trưởng quan trọng, có giá trị xuất khẩu cao, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm và cải thiện sinh kế cho các cộng đồng dân cư sống ở các vùng nông thôn ven biển và hải đảo. Tuy nhiên, do tác động của BĐKH các thiên tai như áp thấp nhiệt đới, bão, lũ lụt ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phát triển của ngành nuôi trồng và chế biến thuỷ sản.

+ Tác động của BĐKH đến ngành công nghiệp

Ngành công nghiệp, đặc biệt là các khu công nghiệp ven biển sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi BĐKH. Dự báo khi NBD khoảng 1m vào cuối thế kỷ 21 sẽ làm cho hầu


hết các khu công nghiệp bị ngập từ 10% đến 67% diện tích [22]. Nguồn nguyên liệu cho công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, dệt, may mặc sẽ bị suy giảm đáng kể vì không được tiếp ứng nguyên liệu ở các tỉnh vùng ĐBSCL vốn bị ngập lụt nặng nề nhất ở Việt Nam. Thêm vào đó, nhiệt độ tăng làm tăng tiêu thụ năng lượng trong các ngành công nghiệp, tăng chi phí thông gió, làm mát hầm lò khai thác và làm giảm hiệu suất, sản lượng của các nhà máy điện,…

Mưa bão thất thường và NBD sẽ tác động tiêu cực đến quá trình vận hành, khai thác hệ thống truyền tải và phân phối điện, dàn khoan, đường ống dẫn dầu và khí vào đất liền, cấp dầu vào tàu chuyên chở dầu; làm gia tăng chi phí bảo dưỡng và sửa chữa các công trình năng lượng; ảnh hưởng tới việc cung cấp, tiêu thụ năng lượng, an ninh năng lượng quốc gia.

+ Tác động của BĐKH tới cơ sở hạ tầng

Các nguy cơ mới về BĐKH và NBD cao kèm theo mưa bão lớn hơn cao sẽ đe doạ đến sự tồn tại hệ thống đê biển (công trình phòng thủ vô cùng quan trọng), hệ thống cảng biển, các tuyến đường sắt ở vùng duyên hải, sân bay, phá huỷ cầu cống và hệ thống ống dẫn. Hiện nay công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí ở Việt Nam đã được tiến hành cả trên đất liền và vùng thềm lục địa (tập trung tại vùng biển Đông Nam và Tây Nam Việt Nam), khi mực NBD cao sẽ đe dọa đến các cơ sở hạ tầng có ý nghĩa này.

Bên cạnh đó, hiện nay, du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn ở nước ta, với hàng triệu người tham gia và kiếm sống nhờ du lịch. BĐKH mà hệ quả là NBD cao sẽ nhấn chìm và phá huỷ cơ sở hạ tầng du lịch, từ đó làm giảm lượt khách và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của hàng triệu người, trong đó đa phần là người nghèo.

+ Tác động của BĐKH tới sức khỏe và an sinh xã hội

Ảnh hưởng của BĐKH làm các ca dịch bệnh truyền nhiễm đường tiêu hóa, ngộ độc thực phẩm ngày càng có xu hướng gia tăng. Bệnh tiêu chảy cấp và hội chứng lỵ có tỷ lệ mắc cao nhất (1340 ca/100.000 dân và 230 ca/100.000 dân) [22]. Đây là những bệnh dịch có liên quan nhiều tới sự biến động của thời tiết và nguồn nước ăn uống, sinh hoạt, lưu trữ nước hộ gia đình.

Tác động của BĐKH đến nghèo đói thường được thể hiện thông qua tác động đến các nguồn lực sinh kế của hộ gia đình có các sinh kế nhạy cảm với khí hậu như


nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy sản, … BĐKH sẽ là trở ngại lớn đối với những nỗ lực giảm nghèo của quốc gia và từng người dân, là trăn trở trong việc ban hành chính sách an sinh xã hội, đảm bảo cuộc sống cho người dân, là nguy cơ hiện hữu đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và sự PTBV của đất nước.

- Tác động của biến đổi khí hậu theo vùng:

Theo Viện Khoa học Khí tượng thuỷ văn và Biến đổi khí hậu, BĐKH và NBD sẽ tác động đến các vùng địa lý tiêu biểu của Việt Nam như: Vùng ven biển và hải đảo; Vùng đồng bằng; Vùng miền núi và trung du; và các khu vực đô thị cũng như các ngành lĩnh vực bị tác động của mỗi vùng (Phụ lục 1).

+ Vùng ven biển và hải đảo: Các khu vực này thường xuyên chịu nhiều tác động của các hiện tượng liên quan đến khí hậu như bão và áp thấp nhiệt đới, đặc biệt ở vùng Trung Bộ; lũ lụt và sạt lở đất ở vùng ven biển Bắc Bộ và Trung Bộ. Bên cạnh đó, vùng ven biển là nơi tập trung của nhiều đô thị và các dịch vụ nên hầu hết các ngành và hoạt động KT-XH đã, đang và sẽ chịu tác động mạnh của BĐKH. Hai ngành có khả năng bị tác động mạnh của BĐKH trong tương lai ở vùng duyên hải là du lịch và thủy sản.

+ Vùng đồng bằng: Việt Nam có hai vùng đồng bằng chính là ĐBSCL và ĐBSH. Đây là các vùng thấp nên thường xuyên chịu các tác động của úng ngập. Vùng đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ sẽ chịu nhiều tác động của bão và áp thấp nhiệt đới, lũ lụt và xói lở trong mùa mưa và hạn hán trong mùa khô. Theo dự tính, trong tương lai, dưới tác động của NBD thì vùng ĐBSCL sẽ là khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

+ Khu vực đô thị: Hầu hết các đô thị lớn nằm ở khu vực đồng bằng và ven biển nên NBD, bão và lũ lụt là những mối nguy hại nghiêm trọng nhất. Hầu hết các lĩnh vực KT-XH ở khu vực đô thị đều chịu tác động của BĐKH. Các cộng đồng có khả năng dễ bị tổn thương cũng đa dạng hơn do các vấn đề xã hội ở đô thị phức tạp hơn. Tuy nhiên, khả năng ứng phó ở các khu vực đô thị luôn cao hơn các khu vực nông thôn do có mặt bằng chung về nhận thức cao hơn, trình độ và năng lực quản lý, hệ thống hạ tầng tốt hơn.


+ Vùng núi và trung du: Vùng núi và trung du Việt Nam có thể được chia thành các khu vực chủ yếu: Vùng núi và Trung du Bắc Bộ, vùng núi Trung Bộ và Tây Nguyên. Các khu vực này thường chịu ảnh hưởng của lũ quét và sạt lở đất; cháy rừng, hạn hán. Các lĩnh vực an ninh lương thực, lâm nghiệp, giao thông vận tải; môi trường, đa dạng sinh học, y tế, sức khỏe cộng đồng và các vấn đề xã hội khác thuộc vùng núi và trung du Việt Nam có nguy cơ chịu tác động đáng kể của BĐKH. Cụ thể:

Đối với vùng núi Tây Bắc và Đông Bắc, mùa mưa cũng như mùa khô trở nên thiếu quy luật, mưa dồn dập hơn trong các tháng cao điểm của mùa mưa và tình trạng khô hạn khốc liệt hơn trong các tháng cuối mùa khô. Lũ lụt, nhất là lũ quét trên các triền núi vẫn là mối đe dọa thường xuyên trong mùa mưa. Ngược lại, vào mùa khô, dòng chảy kiệt lại giảm đi đáng kể, tần số hạn hán gia tăng làm suy giảm một số thực vật ưa lạnh như pơmu, gỗ đỏ, cây dược liệu và làm tăng nguy cơ cháy rừng.

Đối với Vùng Trung du: Mực nước biển tiếp tục tăng lên với tốc độ khoảng 0,5-0,6 cm/năm, cao hơn các thập kỷ vừa qua, gây nhiều khó khăn cho sinh hoạt và sản xuất. NBD lên vừa làm thu hẹp diện tích rừng ngập mặn vừa đưa thuỷ triều xâm nhập sâu hơn vào vùng đồng bằng đòi hỏi chi phí để nâng cấp các công trình giao thông, cầu cảng ven biển và trên các đảo.

Đối với vùng Tây Nguyên: Với xu thế tăng của nhiệt độ, mùa nóng ở các vùng núi vừa và thấp dài thêm, mùa lạnh trên các vùng vừa và cao thu hẹp lại. Thêm vào đó, tính bất ổn định trong chế độ mưa sẽ tăng lên. Lũ lụt, nhất là lũ quét vẫn là mối đe dọa thường xuyên tại Tây Nguyên. Ngược lại, với tình trạng khô hạn ngày càng gắt gao, sản xuất nông nghiệp phải có nhiều thay đổi để thích ứng với môi trường nhiệt độ cao hơn và mưa thất thường hơn. Rừng nửa nhiệt đới của Tây Nguyên như thông, pơ mu, ... và các cây ưa lạnh khác có thể mất đi một phần diện tích đáng kể do sự chuyển dịch các vành đai tổng nhiệt độ về phía núi cao. Nhiệt độ cao hơn tạo điều kiện phát sinh và phát triển nhiều loại vi khuẩn, dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi và cả cư dân sinh sống ở Tây Nguyên.

+ Vùng Nam Bộ: BĐKH kéo theo những biến đổi đáng lưu ý về thời tiết hàng năm ở Nam Bộ như việc mùa bão trở nên bất ổn định hơn và một số cơn bão đổ bộ vào Nam Bộ vào các tháng 9, 10, 11, vốn là mùa bão của các vĩ độ Nam Trung Bộ


hay Bắc Trung Bộ. Các kỷ lục về lượng mưa trong các đợt mưa lớn có thể tiến tới xấp xỉ hoặc bằng Nam Trung Bộ. Nhiều khả năng một số địa phương ghi nhận được các kỷ lục mới về nhiệt độ cao. Lượng bốc hơi tăng lên cùng với nhiệt độ và do đó, chỉ số khô hạn cả năm càng cao hơn, nhất là vào các tháng cuối mùa khô (tháng 4, 5). Mực nước biển tiếp tục dâng lên với tốc độ khoảng 0,5-0,6 cm/năm, trở thành yếu tố có biến đổi đáng lo ngại nhất [22].

Trước những tác động đó, thực tế đòi hỏi phải có các chính sách phù hợp nhằm ứng phó với BĐKH và BVMT nhằm PTBV trong dài hạn. Tuy nhiên, tác động của BĐKH đến các địa phương là hoàn toàn khác nhau, vì vậy, các địa phương cần xây dựng cho mình những kế hoạch, những biện pháp nhằm ứng phó với BĐKH phù hợp với tình hình thực tiễn và nguồn lực của từng địa phương.

1.2. Những vấn đề cơ bản về ứng phó với biến đổi khí hậu của chính quyền địa phương

1.2.1. Quan niệm, cơ sở pháp lý và nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong công tác ứng phó với biến đổi khí hậu

1.2.1.1. Quan niệm về ứng phó biến đổi khí hậu của chính quyền địa phương

Công tác ứng phó với BĐKH của CQĐP được thể hiện thông qua sự chỉ đạo, lãnh đạo, hoạch định của CQĐP tác động có tính định hướng và mục tiêu rõ ràng đến các cơ quan chuyên môn và toàn xã hội trong khu vực nhằm thực thi nhiệm vụ và thực hiện có hiệu quả những giải pháp thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH. Trước hết, CQĐP phải xác định khung thể chế, cơ sở pháp lý (những chủ trương, định hướng, chiến lược, chính sách, quan điểm,…) của Đảng, nhà nước, chính phủ về vấn đề ứng phó với BĐKH; để xây dựng, định hướng chủ trương, chính sách, kế hoạch hành động; lãnh đạo, quản lý, tổ chức điều hành, quán triệt, triển khai và thực hiện những chủ trương, chính sách, kế hoạch đó. Gắn liền với các hoạt động lãnh đạo đó, CQĐP cũng thường xuyên thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát, phát hiện kịp thời những vấn đề chưa phù hợp, sai phạm; đồng thời có những chính sách kịp thời động viên đối với các đối tượng quản lý trong công tác ứng phó với BĐKH.


1.2.1.2. Cơ sở pháp lý về ứng phó với biến đổi khí hậu của chính quyền địa phương

Ứng phó với BĐKH luôn là nhiệm vụ được đặt trọng tâm hàng đầu của Đảng và nhà nước ta, nhiệm vụ này đã được cụ thể hoá trong các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và được lồng ghép, thể hiện trong các chính sách, chiến lược, dự án, hành động cụ thể:

BĐKH đã được đề cập trong Hiến pháp (2013) hiện hành của Việt Nam. Điều 63 Hiến pháp đã xác định “Nhà nước có chính sách BVMT; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với BĐKH” [5]. Điều này thể hiện mối quan tâm đến ứng phó với BĐKH của Nhà nước, xác định trách nhiệm của Nhà nước chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với BĐKH.

Việc xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật về phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với BĐKH đã được chú trọng hơn từ năm 2005 đến nay. Điều này được phản ánh qua sự ra đời của các luật có liên quan đến BĐKH như Luật Bảo vệ môi trường (2014), Luật khí tượng thuỷ văn (2015), Luật bảo vệ và phát triển rừng (2004), Luật Tài nguyên nước (2012), Luật Đất đai (2013) Luật đa dạng sinh học (2008), Luật Quy hoạch đô thị (2009), Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (2010); Luật Phòng, tránh thiên tai năm 2013; Luật Đê điều (2006),…

Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã dành riêng một Chương (Chương IV) cho vấn đề BĐKH. Ngoài ra, trong Luật này còn có nhiều quy phạm trong các chương khác quy định về ứng phó với BĐKH như: khoản 4 Điều 6 Luật bảo vệ môi trường xác định “hoạt động ứng phó với BĐKH là một trong những hoạt động BVMT được khuyến khích”; khoản 1 Điều 39 yêu cầu “mọi hoạt động bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với ứng phó biến đổi khí hậu”. [6]

Các luật này trên những phương diện khác nhau, đã dự liệu các vấn đề liên quan đến ứng phó với BĐKH, cơ bản đã tạo khung thể chế và pháp lý đối với vấn đề ứng phó với BĐKH ở Việt Nam. Mặc dù vậy, vẫn cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về ứng phó BĐKH theo hướng vừa có văn bản pháp luật khung, vừa có các quy định chuyên ngành về BĐKH.

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 23/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí