TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Ứng phó với BĐKH đã và đang đặt ra những yêu cầu mới cho CQĐP các tỉnh hiện nay. Là thành tố quyết định đối với mục tiêu PTBV đất nước, cấp CQĐP phải có sự nhìn nhận, đánh giá với ứng phó với BĐKH vừa là nhân tố tác động, vừa là yếu tố cần chú trọng quan tâm trong việc xây dựng và lựa chọn chính sách. CQĐP phải đảm bảo hài hòa vấn đề ứng phó với BĐKH và yêu cầu phát triển KT-XH ở địa phương. Đây là một vấn đề khó khăn đòi hỏi CQĐP phải có sự quan điểm rõ ràng về PTBV để vừa bảo đảm sự tăng trưởng vừa chủ động thích ứng và giảm thiểu những hậu quả của BĐKH.
Nghiên cứu thực trạng ứng phó BĐKH trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cho thấy, trong thời gian gần đây, tuy đã có nhiều kết quả tích cực trên hầu hết các phương diện từ nhận thức, tổ chức bộ máy quản lý, xây dựng chính sách, pháp luật, chiến lược, kế hoạch và tổ chức thực hiện triển khai nhưng những kết quả đó chưa thực sự tương xứng với tốc độ phát triển và yêu cầu của thực tế. Công tác ứng phó với BĐKH vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần khắc phục. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà cơ bản là từ sự nhận thức, chính sách và hệ thống pháp luật, năng lực và tầm nhìn hoạch định, nguồn lực thực tiễn của địa phương và đất nước. Vì vậy, cần thiết phải tìm ra giải pháp thực hiện nhằm khắc phục các hạn chế, tồn tại đồng thời nâng cao hiệu quả công tác ứng phó với BĐKH của CQĐP trong thời gian tới.
Chương 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Phương hướng tăng cường ứng phó với biến đổi khí hậu của chính quyền địa phương tỉnh Đắk Lắk
Có thể bạn quan tâm!
- Tổ Chức Bộ Máy, Phát Triển Nguồn Nhân Lực Ứng Phó Với Biến Đổi Khí Hậu
- Hoạt Động Dự Báo, Cảnh Báo Nhằm Chủ Động Phòng, Tránh Và Giảm Nhẹ Thiên Tai, Ứng Phó Với Biến Đổi Khí Hậu
- Khuyến Khích Phát Triển Năng Lượng Tái Tạo Góp Phần Giảm Nhẹ Phát Thải Khí Nhà Kính
- Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Tuyên Truyền Về Nhận Thức Và Ý Thức Trách Nhiệm Trong Ứng Phó Với Biến Đổi Khí Hậu
- Nâng Cao Năng Lực Lồng Ghép Mục Tiêu Ứng Phó Với Biến Đổi Khí Hậu Trong Quy Hoạch, Kế Hoạch, Chính Sách Phát Triển Kinh Tế-Xã Hội
- Ứng phó với biến đổi khí hậu của chính quyền địa phương tỉnh Đắk Lắk - 14
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
3.1.1. Những yêu cầu đặt ra trong vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu của chính quyền địa phương
Ứng phó với BĐKH đã và đang đặt ra những yêu cầu mới cho CQĐP các tỉnh hiện nay. Đóng vai trò là thành tố quyết định đối với mục tiêu PTBV đất nước, cấp CQĐP phải có sự nhìn nhận, đánh giá ứng phó với BĐKH vừa là nhân tố tác động, vừa là yếu tố cần chú trọng quan tâm trong việc xây dựng và lựa chọn chính sách. CQĐP phải đảm bảo hài hòa thực hiện ứng phó với BĐKH và yêu cầu phát triển KT- XH ở địa phương. Đây là một vấn đề khó khăn đòi hỏi CQĐP phải có quan điểm rõ ràng về PTBV để vừa bảo đảm sự tăng trưởng vừa chủ động thích ứng và giảm thiểu những hậu quả của BĐKH.
Việc ứng phó với BĐKH đòi hỏi CQĐP cần thiết lập nhận thức một cách đầy đủ vì với những biểu hiện, các diễn biến nhanh chóng, khó lường mà BĐKH gây ra sẽ tác động mạnh mẽ, trực tiếp, rõ ràng ở hiện tại và những nguy cơ tiềm ẩn đe doạ lâu dài trong tương lai đến môi trường tự nhiên, môi trường KT-XH, đời sống dân cư của chính người dân địa phương. Ứng phó với BĐKH là một quá trình khó khăn cần sự nỗ lực từ CQĐP và của cộng đồng xã hội, hợp lực để tạo nên sức mạnh tổng hợp; đòi hỏi CQĐP cần có năng lực tổ chức, phối hợp, huy động tốt nguồn lực tại chỗ và nguồn lực từ bên ngoài để ứng phó với BĐKH. Vì vậy, CQĐP phải năng động và chủ động nắm bắt tình hình, kịp thời đưa ra những quyết sách, những biện pháp ứng phó hiệu quả với BĐKH.
3.1.2. Định hướng tăng cường ứng phó với biến đổi khí hậu của chính quyền địa phương tỉnh Đắk Lắk
Trong những thập kỷ gần đây, Đảng ta đã luôn thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề BĐKH cũng như những ảnh hưởng của BĐKH tới phát triển KT-XH. Điều đó thể hiện thông qua các chủ trương, đường lối của Đảng. Hệ thống quan điểm của Đảng về ứng phó với BĐKH đã được hình thành và phát triển, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã đánh giá vấn đề BĐKH là thách thức mang tính toàn cầu, có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của đất nước, xác định rõ định hướng mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để đẩy mạnh công tác chủ động ứng phó với BĐKH. Cương lĩnh nhận định "nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, BVMT và ứng phó với BĐKH toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo… Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các quốc gia, dân tộc". Từ đó, Đảng ta đã đề ra phương hướng cơ bản phát triển đất nước, xác định "BVMT là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và BVMT sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch. Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải pháp ứng phó với quá trình BĐKH và thảm họa thiên nhiên. Quản lý, bảo vệ, tái tạo và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia".
Chiến lược phát triển KT-XH 2011 - 2020 khẳng định PTBV là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược. Chiến lược đã chỉ rõ, để đảm bảo phát triển nhanh gắn liền với PTBV thì trong "phát triển KT-XH phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với BĐKH ", xác định mục tiêu "chủ động ứng phó có hiệu quả với BĐKH, nhất là NBD", và đưa ra định hướng phát triển "đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng thủy văn, BĐKH và đánh giá tác động để chủ động triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp phòng, chống thiên tai và Chương trình quốc gia về ứng phó với BĐKH, nhất là NBD. Tăng cường hợp tác quốc tế để phối hợp hành động và tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế".
Đứng trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để đồng bộ với chủ trương chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế, phát triển nhanh, bền vững; cùng với xu thế mới của thời đại, mang tính toàn cầu và xuất phát từ những tồn tại, yếu kém trong ứng phó với BĐKH cũng như những thách thức đặt ra, Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT.
Nghị quyết đã xác định rõ các quan điểm liên quan đến BĐKH:
- Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự PTBV của đất nước; là tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị; là trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia, giám sát của toàn xã hội.
- BĐKH là vấn đề toàn cầu, là thách thức nghiêm trọng đối với toàn nhân loại trong thế kỷ 21. Ứng phó với BĐKH phải được đặt trong mối quan hệ toàn cầu; không chỉ là thách thức mà còn tạo cơ hội thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng PTBV. Phải tiến hành đồng thời thích ứng và giảm nhẹ, trong đó thích ứng với BĐKH, chủ động phòng, tránh thiên tai là trọng tâm.
Để có thể tăng cường ứng phó với BĐKH, CQĐP tỉnh Đắk Lắk cần quan tâm thực hiện các nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, bám chắc vào quan điểm chỉ đạo của Đảng về chủ động ứng phó với BĐKH, quan điểm, mục tiêu, các nhiệm vụ của chiến lược quốc gia về BĐKH để xác định nhiệm vụ, phương hướng, cụ thể hoá văn bản quy phạm pháp luật về ứng phó với BĐKH; xây dựng, ban hành các chính sách, chiến lược, kế hoạch, phân bổ nguồn lực hiệu quả và tổ chức thực hiện công tác ứng phó với BĐKH đạt kết quả.
Thứ hai, tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, chất lượng chính quyền; công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, giáo dục ý thức, trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, công chức, lực lượng nòng cốt trong tổ chức thực hiện ứng phó với BĐKH tại địa phương, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu thực tế đặt ra.
Thứ ba, khắc phục tình trạng bị động, thiếu quyết liệt, mang tính hình thức, chú trọng tăng trưởng kinh tế mà buông lỏng QLNN về ứng phó với BĐKH. Cần cơ chế giám sát việc thực hiện ứng phó với BĐKH đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, đảm bảo tuân thủ thực hiện chế độ báo cáo định kỳ theo quy định về tiến độ thực hiện ứng phó với BĐKH tại địa phương nhằm cập nhật thông tin kịp thời, chủ động tham mưu để có những sự điều chỉnh phù hợp.
Thứ tư, nâng cao năng lực hoạch định, tầm nhìn trong vấn đề lồng ghép mục tiêu ứng phó với BĐKH trong quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển KT-XH. Kết quả của việc lồng ghép này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các nhiệm vụ về ứng phó với BĐKH cũng như mục tiêu PTBV của địa phương.
Thứ năm, đổi mới cơ chế, chính sách, đẩy mạnh cải cách hành chính để thu hút sự tham gia từ khối tư nhân, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các cơ quan khoa học vào khu vực tìm kiếm cơ hội phát triển. Chủ động hội nhập quốc tế, tăng cường liên kết vùng, hợp tác, thu hút, tranh thủ sự giúp đỡ từ quốc tế trong việc ứng phó với BĐKH.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác ứng phó với biến đổi khí hậu của chính quyền địa phương tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Giải pháp về hoàn thiện thể chế, kiện toàn bộ máy thực hiện ứng phó với biến đối khí hậu
CQĐP tỉnh Đắk Lắk cần đặt trạng thái chủ động và chủ động hơn nữa trong công tác ứng phó với BĐKH. Tỉnh uỷ và UBND tỉnh cần bám sát vào quan điểm, phương hướng, mục tiêu, chính sách, chiến lược của Đảng và Nhà nước về ứng phó với BĐKH để xác định nhiệm vụ, xây dựng, ban hành kế hoạch, chiến lược và hành động cụ thể, phù hợp với thực tiễn địa phương nhằm tổ chức thực hiện theo đúng quy định. Thường xuyên hàng năm tổ chức tổng kết, rà soát, báo cáo tiến độ thực hiện để có sự điều chỉnh kịp thời, bổ sung các giải pháp ứng phó với BĐKH phù hợp với thực tiễn của tỉnh. Cụ thể, trong thời gian tới, UBND tỉnh cần lưu ý việc đẩy nhanh tiến độ việc ban hành và triển khai thực hiện: Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch hành động thực hiện thỏa thuận Paris về BĐKH giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2025; Kế hoạch thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của tỉnh đến năm 2030; cập nhật kịch bản ứng phó với BĐKH sát với tình hình thực tại tỉnh theo giai đoạn cụ thể cho từng vùng, sẵn sàng hành động ứng phó với BĐKH. Thường xuyên hàng năm rà soát, bổ sung các giải pháp thích ứng với BĐKH trong tất cả các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực KT-XH của tỉnh.
Kiện toàn bộ máy chỉ đạo ứng phó với BĐKH từ tỉnh xuống đến cấp xã, phường, thị trấn theo hướng tinh gọn và đảm bảo hoạt động có hiệu quả; sắp xếp, bố trí nguồn nhân lực, tăng cường năng lực đáp ứng phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, đơn vị, phòng chuyên trách về ứng phó với BĐKH. Đồng thời, hoàn thiện bộ máy chỉ đạo, chỉ huy phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn, ứng phó với BĐKH các cấp, các ngành thống nhất, phù hợp đảm bảo hiệu quả hoạt động trong chỉ đạo, điều hành và quản lý thông suốt đáp ứng được các nhu cầu phát triển KT-XH trước các tác động do BĐKH.
Xây dựng quy định nhằm thực hiện minh bạch hóa trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, đặc biệt đối với tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản và tài nguyên nước; giải quyết tranh chấp, xung đột trong ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT. Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo hướng tạo sự bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, hoàn thiện và tăng cường thực thi các chính sách tài chính, tín dụng, ưu đãi, trợ giá, hỗ trợ về đất đai,… cho hoạt động BVMT. Nâng cao trách nhiệm giải trình, tính công khai, minh bạch trong ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT.
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế phối hợp trong thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu
Tăng cường sự tham gia của nhiều bên trong việc xây dựng kế hoạch, chiến lược cũng như tổ chức thực hiện ứng phó với BĐKH trên địa bàn tỉnh là hết sức cần thiết.
Thứ nhất, thực hiện ứng phó với BĐKH là mục tiêu xuyên suốt dài hạn trong tiến trình phát triển KT-XH, liên quan đến nhiều cơ quan, Sở ban, ngành tại tỉnh (Sở TN&MT, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài chính, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Kho bạc nhà nước,…), gắn liền nhiều lĩnh vực, nhiệm vụ khác nhau (lập quy hoạch, kế hoạch, chiến lược, thu hút đầu tư, xây dựng, quản lý đất đai, môi trường, tài nguyên, phân bổ nguồn lực, tổ chức thực hiện, cấp phát vốn đầu tư,…) và cần tính đồng bộ, tổng thể quốc gia, do đó, tất yếu cần xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành, liên tỉnh; để đảm bảo việc xây dựng và tổ chức thực hiện được nhanh chóng, thuận lợi, tránh tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ thực hiện dẫn đến chậm trễ trong xử lý. Các đơn vị tham gia vào quá trình xây dựng kế hoạch, chiến lược có thể thông qua việc cung cấp thông tin phục vụ cho đánh giá, tham gia đánh giá, phân tích thực trạng, xác định mục tiêu ưu tiên, các
nhu cầu cấp thiết, thảo luận các giải pháp cụ thể và các phương án phân bổ ngân sách, huy động nguồn lực xã hội, giúp đưa ra các mục tiêu kế hoạch sát với nhu cầu thực tế, nguồn lực sẽ được huy động tối đa và được phân bổ hiệu quả hơn. Mở rộng sự tham gia của nhiều đơn vị trong kế hoạch, chiến lược sẽ là cách nâng cao trách nhiệm của các đơn vị đó trong quá trình thực hiện kế hoạch, tránh tình trạng thoái thác trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ. UBND tỉnh cần chỉ đạo các Sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố, huyện, phường/xã thực hiện tốt cơ chế phối hợp về ứng phó với BĐKH.
Thứ hai, Bên cạnh sự tham gia của các cấp, các cơ quan, ban ngành ở địa phương có thể huy động sự tham gia của các tổ chức tư vấn, các cơ quan nghiên cứu như các trường đại học, cơ sở đào tạo, các chuyên gia đầu ngành... Đây là những đơn vị, cá nhân có chuyên môn nghiệp vụ cao, có thể giúp địa phương trong việc sử dụng các công cụ phân tích, đánh giá, đào tạo cán bộ kế hoạch địa phương cũng như giúp cho địa phương đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan trong bản kế hoạch.
Thứ ba, cần tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào quá trình tạo lập, thực hiện kế hoạch và tham mưu xây dựng quy định pháp luật về ứng phó với BĐKH, cần phát huy hơn nữa sáng kiến và tinh thần làm chủ của nhân dân trong việc quản lý xã hội và cộng đồng. Nâng cao sự tham gia của cộng đồng trong việc xem xét đánh giá tác động môi trường bằng cách thể chế hóa vai trò của quần chúng, đây sẽ là những đóng góp mang tính thực tiễn cao và góp phần hiện thức hoá các chủ trương, chính sách, chiến lược đạt được mục tiêu kế hoạch đề ra.
3.2.3. Đổi mới cơ chế tài chính và đa dạng hoá vốn đầu tư cho ứng phó với biến đổi khí hậu
Hiện nay, theo một số thống kê cho thấy tỉ lệ phần trăm trên GDP chi cho ứng phó với BĐKH vẫn còn ở mức thấp, ước tỉnh bằng 0,1% GDP của Việt Nam. Để chuyển đổi từ mô hình phát triển thông thường sang con đường phát triển ít phát thải CO2 và thích ứng với khí hậu thì tỉ lệ này cần tăng lên.
UBND tỉnh Đắk Lắk cần đổi mới công tác quản lý, bố trí và sử dụng nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước, địa phương và các nguồn hỗ trợ quốc tế cho việc đảm bảo thực hiện đúng tiến độ các dự án thuộc danh mục ưu tiên trong Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH tỉnh Đắk Lắk, đảm bảo sử dụng nguồn kinh
phí này một cách hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, chi đúng mục tiêu và quy định. Bên cạnh việc bố trí ngân sách cho dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn để tăng cường năng lực chống chịu, cũng cần ưu tiên bố trí ngân sách cho công tác điều tra, khảo sát, đo lường, kiểm kê lượng phát thải KNK, nghiên cứu khoa học – công nghệ trong ứng phó với BĐKH. Đề nghị sự hỗ trợ, phân bổ kinh phí cho hoạt động ứng phó với BĐKH của Chính phủ, các bộ ngành của Trung ương cũng như cần phải có kế hoạch lồng ghép kế hoạch ứng phó với BĐKH vào các kế hoạch phát triển của ngành thông qua các nhiệm vụ, dự án phát triển cụ thể.
Triển khai, áp dụng các công cụ kinh tế trong ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT. Phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ môi trường, thị trường CO2, các hình thức đối tác công tư (PPP), tín dụng xanh, trái phiếu xanh; tiếp tục triển khai thực hiện xã hội hóa để huy động đầu tư từ nguồn ngoài ngân sách. Vận dụng có hiệu quả nguyên tắc: Người gây ô nhiễm phải trả chi phí để xử lý, khắc phụ hậu quả, cải tạo và phục hồi môi trường, người được hưởng lợi từ TN&MT phải có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho quản lý tài nguyên và BVMT. Sử dụng có hiệu quả quỹ bảo vệ môi trường, thuế tài nguyên,... phục vụ cho việc ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT.
Chủ động và tích cực huy động mọi nguồn lực quốc tế, kêu gọi sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức quốc tế nhằm nâng cao năng lực trong phòng chống và giảm thiểu rủi ro thiên tai, ứng phó với BĐKH, trong công tác khắc phục hậu quả thiên tai. Xây dựng các nhiệm vụ chuyên môn, dự án nghiên cứu khoa học liên quan đến Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó BĐKH có sự đầu tư của tổ chức trong nước và quốc tế như UNDP, WB, ADB, WHO,... nhằm tạo thêm nguồn lực về tài chính. Ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho BVMT, ứng phó với BĐKH.
3.2.4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cảnh báo, dự báo trong ứng phó với biến đổi khí hậu
Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai cấp tỉnh; chủ động phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với BĐKH. Tăng cường dự báo dài hạn về thiên tai, nguồn nước, nhất là các vùng trọng điểm thường xuyên bị hạn hán, thiếu nước. Xây dựng và thực hiện các chương trình phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai. Xây dựng cơ sở dữ liệu về BĐKH, TN&MT thống nhất, đồng bộ, liên tục cập nhật; vận hành cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa các cấp, ngành và các bên liên quan.