Các Mô Hình Đo Lường Rủi Ro Lãi Suất

1.2.1.2.1. Căn cứ vào nguồn sử dụng

- Lãi suất huy động: lãi suất quy định lãi phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng. Lãi suất huy động thường căn cứ vào đối tượng huy động (tiền hay vật đảm bảo có giá trị, nội tệ hay ngoại tệ, cá nhân hay các tổ chức kinh tế) và thời gian huy động.

- Lãi suất cho vay: lãi suất quy định tỉ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho người cho vay.

Theo nguyên tắc hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu của chúng là kinh doanh tiền tệ, lãi suất cho vay bao giờ cũng phải lớn hơn lãi suất huy động để đảm bảo ngân hàng có thể bù đắp được các chi phí bỏ ra và có lợi nhuận. Thông thường lãi suất cho vay và lãi suất huy động có mối quan hệ như sau:

Lãi suất cho vay = Lãi suất huy động + chi phí + rủi ro tối thiểu + lợi nhuận

1.2.1.2.2. Căn cứ theo giá trị thực

- Lãi suất danh nghĩa: lãi suất được xác định cho mỗi kì hạn gửi hoặc vay, thể hiện trên quy ước giấy tờ được thỏa thuận trước.

- Lãi suất thực: lãi suất xác định giá trị thực của các khoản lãi phải trả và thu được.

Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỉ lệ lạm phát

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 92 trang tài liệu này.

1.2.1.2.3. Căn cứ theo phương pháp tính lãi

- Lãi suất đơn: tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay ban đầu, không gộp lãi vào số tiền vay ban đầu để tính lãi kì hạn kế tiếp.

Ứng dụng mô hình tái định giá để đo lường rủi ro lãi suất tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Vietinbank - 3

- Lãi suất kép: tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay, số tiền vay có tăng lên do có gộp lãi qua từng thời kì cho vay để tính lãi kì hạn kế tiếp.

1.2.1.2.4. Căn cứ theo đồng tiền

- Lãi suất nội tệ: là lãi suất áp dụng để tính toán cho đồng nội tệ (kể cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay)

- Lãi suất ngoại tệ: là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho đồng ngoại tệ.

1.2.1.2.5. Căn cứ theo độ dài thời gian


Theo cách phân loại này, đối với cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay, thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.

- Lãi suất ngắn hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản vay dưới một năm.

- Lãi suất trung hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản vay từ một đến năm năm.

- Lãi suất dài hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản vay trên năm năm.

1.2.2. Rủi ro lãi suất


1.2.2.1. Khái niệm


Rủi ro lãi suất là một trong những loại rủi ro chủ yếu trong kinh doanh ngân hàng. Rủi ro lãi suất là rủi ro đối với các khoản thu nhập và giá trị thị trường của danh mục đầu tư bắt nguồn từ sự biến động của tỉ lệ lãi suất.

Người ta có thể tiếp cận với vấn đề rủi ro lãi suất dưới hai góc độ khác nhau:


Từ khía cạnh giá trị sổ sách, rủi ro lãi suất được nhìn nhận thông qua các ảnh hưởng của nó đến khoản thu nhập được phản ánh trong sổ sách của ngân hàng, khía cạnh này tập trung vào rủi ro của thu nhập trong ngắn hạn, đặc biệt trong vòng 1 hay 2 năm. Sự biến động của tỉ lệ lãi suất nhìn chung thường ảnh hưởng đến thu nhập được phản ánh trong sổ sách thông qua những thay đổi trong thu nhập lãi ròng của ngân hàng.

Từ khía cạnh giá trị thị trường đôi khi còn gọi là giá trị kinh tế, rủi ro lãi suất danh mục đầu tư, bao gồm các tài sản có, tài sản nợ và các công cụ tài chính ngoại bảng có liên quan đến lãi suất của ngân hàng. Gía trị kinh tế của những tài sản này bằng với giá trị hiện tại của dòng tiền trong tương lai của chúng. Bằng việc định giá những thay đổi trong giá trị hiện tại của những hợp đồng xuất phát từ một sự thay

đổi trong tỉ lệ lãi suất đã được tính đến, người ta có thể ước lượng được sự thay đổi về giá trị kinh tế của ngân hàng. Ngược lại với khía cạnh giá trị sổ sách, giá trị thị trường tập trung vào những rủi ro bắt nguồn từ việc định giá lại hay sự không cân xứng về kì hạn các loại tài sản trong dài hạn.

1.2.2.2. Các loại rủi ro lãi suất


1.2.2.2.1. Rủi ro kì hạn bất cân xứng


Rủi ro kì hạn bất cân xứng bắt nguồn từ sự khác nhau về thời hạn lãi suất thay đổi và thời hạn của dòng tiền, xảy ra khi các tài sản có, tài sản nợ, các công cụ ngoại bảng của ngân hàng được định giá hoặc đáo hạn. Đây là loại rủi ro lãi suất thường thấy nhất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một số ngân hàng vẫn chủ ý chấp nhận loại rủi ro này để cải thiện thu nhập, tuy nhiên, những nguồn thu nhập này thường dễ bị ảnh hưởng trước sự tăng lên của tỉ lệ lãi suất kéo théo sự tăng lên của chi phí vay tiền.

Người ta gọi những ngân hàng mà kì hạn của các tài sản có được định giá lại dài hơn kì hạn của các tài sản nợ được định giá lại là nhạy cảm với tài sản nợ, bởi vì tài sản nợ của các ngân hàng này sẽ được định giá lại nhanh hơn. Thu nhập của các ngân hàng nhạy cảm với tài sản nợ thường tăng khi tỉ lệ lãi suất giảm và giảm khi tỉ lệ lãi suất tăng. Ngược lại, các ngân hàng nhạy cảm với tài sản có (kì hạn của tài sản nợ được định giá lại dài hơn) sẽ hưởng lợi từ sự gia tăng tỉ lệ lãi suất và bị thiệt hại khi tỉ lệ lãi suất giảm.

Ví dụ như, ngân hàng huy động vốn có kì hạn 1 năm với mức lãi suất 10%/năm và đầu tư kì hạn 2 năm với mức lãi suất 11%/năm. Sau năm đầu tiên ngân hàng thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất là 11%-10%=1%. Sang năm thứ hai, do lãi suất thị trường tăng lên, ngân hàng chỉ có thể huy động vốn ở mức 12%/năm , do đó ngân hàng sẽ chịu lỗ 12%-11%=1%. Như vậy, lợi nhuận của năm thứ nhất chỉ đủ bù đắp cho khoản lỗ của năm thứ hai.

Kết quả là, nếu ngân hàng duy trì tài sản có có kì hạn dài hơn so với tài sản nợ (ngân hàng nhạy cảm với tài sản nợ) thì ngân hàng luôn đứng trước rủi ro về lãi suất

trong việc tái tài trợ đối với tài sản nợ. Trường hợp ngược lại, nếu tài sản nợ có kì hạn dài hơn tài sản có, ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro về lãi suất tái đầu tư.

Rủi ro kì hạn bất cân xứng còn có thể xảy ra trong trường hợp tài sản có hoặc tài sản nợ có lãi suất thả nổi. Nếu tài sản có lãi suất cố định được tài trợ bằng tài sản nợ có thể tăng trong khi tỉ lệ lãi kiếm được từ tài sản có có thể vẫn giữ nguyên không đổi.

1.2.2.2.2. Rủi ro quyền chọn đi kèm


Một hợp đồng quyền chọn mang lại cho người nắm giữ quyền (không phải nghĩa vụ) mua hoặc bán một tài sản tại một mức giá xác định trong một khoảng thời gian nhất định. Trong đó, người bán hợp đồng quyền chọn có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng nếu người mua quyền chọn thực hiện hợp đồng. Thông thường người nắm giữ quyền chọn chỉ thực hiện hợp đồng khi có lợi. Do vậy, người nắm giữ quyền phải đối mặt với rủi ro được giới hạn (phí phải trả được mua quyền chọn) và khoản lợi không giới hạn, ngược lại, ngưới bán quyền phải đối mặt với rủi ro không giới hạn vì hợp đồng quyền chọn thường được thực hiện vào thời điểm bất lợi cho người bán quyền và khoản lợi giới hạn (nếu người mua quyền không thực hiện hợp đồng, người bán sẽ thu được khoản phí).

1.2.2.2.3. Rủi ro cơ bản


Rủi ro cơ bản bắt nguồn từ sự thay đổi trong mối quan hệ về tỉ lệ lãi suất tại các thị trường tài chính khác nhau, hoặc của các công cụ tài chính khác nhau. Nó xảy ra khi lãi suất thị trường của các công cụ tài chính khác nhau, hoặc các chỉ số được sử dụng để định giá tài sản có và tài sản nợ thay đổi vào những thời điểm khác nhau hoặc thay đổi những lượng khác nhau.

Ví dụ như, nếu ngân hàng cho vay với lãi suất cơ bản trong khi huy động với mức lãi suất Libor, nó sẽ đứng trước rủi ro là biên độ giữa lãi suất cơ bản và Libor có thể thu hẹp. Trường hợp khác khi biên độ giữa lãi suất trái phiếu kho bạc kì hạn 3 tháng và lãi suất Libor kì hạn 3 tháng thay đổi, nó sẽ ảnh hưởng lãi ròng của ngân hàng thông qua sự thay đổi giữa biên độ lãi kiếm được phải trả của các công

cụ tài chính được định giá lại. Nó cũng ảnh hưởng đến dòng tiền trong tương lai được dự đoán của các công cụ trên và do đó, ảnh hưởng đến giá trị kinh tế ròng của ngân hàng.

1.2.2.2.4. Rủi ro đường cong lãi suất thay đổi


Đường cong lãi suất biểu thị mối quan hệ giữa lãi suất thị trường cho những chứng khoán có thu nhập cố định và thời gian đáo hạn của chứng khoán đó, với một đồng tiền nhất định, của một khách hàng nhất định. Trong điều kiện thị trường bình thường, các chứng khoán có kì hạn càng dài thì sẽ có lãi suất càng cao nhưng lãi suất biên lại giảm dần, và nhạy cảm hơn với lạm phát cũng như những sự biến động trên thị trường.

Rủi ro đường cong lãi suất thay đổi xuất phát từ sự biến động về lãi suất của các kì hạn khác nhau của cùng một chỉ số hay trên cùng một thị trường (ví dụ như trái phiếu kho bạc kì hạn 3 tháng và 5 tháng). Mối quan hệ giữa lãi suất và kì hạn thay đổi khi hình dáng của đường cong cho từng thị trường xác định thoải, dốc hoặc đảo chiều trong suốt một chu kì lãi suất. Sự khác nhau về đường cong lãi suất có thể làm tăng rủi ro cho ngân hàng bằng việc khuyếch đại ảnh hưởng của việc bất cân xứng kì hạn.

1.2.2.3. Nguyên nhân rủi ro lãi suất


1.2.2.3.1. Sự không phù hợp về kì hạn của nguồn vốn và tài sản


Các tài sản và nguồn vốn của ngân hàng có kì hạn khác nhau. Khi gắn chúng với lãi suất, các ngân hàng quan tâm đến kì hạn đặt lãi. Căn cứ vào kì hạn khoản vay mà ngân hàng có kì hạn đặt lãi suất cho phù hợp. Từ đó ngân hàng sẽ chia tài sản và nguồn vốn thành loại nhạy cảm với lãi suất và loại kém nhạy cảm với lãi suất. Tài sản và nguồn nhạy cảm với lãi suất là loại mà số dư nhanh chóng chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất thị trường thay đổi. Ví dụ như: loại có kì hạn đặt lại giá dưới 12 tháng như tài sản và nguồn ngắn hạn, tài sản và nguồn vốn trung dài hạn đáo hạn dưới 12 tháng, …


suất:

Sự không phù hợp kì hạn của nguồn vốn và tài sản được đo bằng khe hở lãi


Khe hở lãi suất = Tài sản nhạy cảm lãi suất - Nguồn nhạy cảm lãi suất


Ngân hàng có khe hở dương nếu tài sản nhạy cảm lớn hơn nguồn nhạy cảm

nghĩa là kì hạn huy động dài hơn sử dụng và có khe hở âm nếu tài sản nhạy cảm nhỏ hơn nguồn nhạy cảm nghĩa là kì hạn huy động nhỏ hơn sử dụng.

Sự khác biệt về kì hạn và kì hạn đặt lại là tất yếu và ngân hàng khó có thể duy trì một sự phù hợp tuyệt đối về kì hạn giữa nguồn và các loại tài sản khác nhau trong mọi thời kì do kì hạn thường do người đi vay và người gửi tiền quyết định. Kì hạn đặt lại thì bị tác động bởi dự đoán về sự biến động lãi suất trong tương lai của ngân hàng và của khách hàng. Khách hàng muốn chọn lãi suất cố định trong suốt hợp đồng để tính toán trước chi phí của dự án trong khi đó thì ngân hàng có xu hướng chia nhỏ kì hạn để hạn chế rủi ro lãi suất.

1.2.2.3.2. Sự thay đổi lãi suất thị trường khác với dự kiến của ngân hàng


Quan hệ cung cầu về tín dụng trên thị trường thường xuyên thay đổi, do đó lãi suất thị trường cũng thay đổi theo. Ngân hàng rất khó kiểm soát mức độ và xu hướng biến động của nó.

Nếu ngân hàng duy trì khe hở lãi suất dương thì sự tăng giảm về chênh lệch lãi suất tỉ lệ thuận với sự tăng giảm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Ngược lại, nếu ngân hàng duy trì khe hở lãi suất âm thì sẽ tỉ lệ nghịch.

Ngân hàng chỉ có thể phản ánh điều chỉnh hoạt động của mình theo sự biến động lãi suất để đạt được mục tiêu mong muốn kinh doanh hiệu quả nhất.

1.2.2.3.3. Ngân hàng sử dụng lãi suất cố định trong các hợp đồng


Trong suốt một thời gian dài trước đây các NHTM Việt Nam sử dụng chế độ lãi suất cố định theo quy định của NHNN. Các dự án cho vay trung và dài hạn luôn chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu cho vay của NHTM, mà hầu hết các dự án cho vay này áp dụng mức lãi suất cố định do các chủ đầu tư muốn tính được trước chi phí

của dự án để có thể xác định được dòng tiền trong tương lai và tính được hiệu quả của dự án. Cũng như vậy, phần lớn những người gửi tiết kiệm cũng yêu cầu lãi suất cố định để phòng ngừa rủi ro. Khi lãi suất thị trường thay đổi thì những hợp đồng này có thể đem lại rủi ro cho khách hàng và ngân hàng.

1.2.2.4. Tác động của rủi ro lãi suất


Lãi suất thay đổi có thể làm tăng chi phí nguồn vốn, giảm thu nhập từ tài sản của ngân hàng. Rủi ro lãi suất cũng làm giảm giá trị thị trường của tài sản có và vốn chủ sở hữu của ngân hàng, cụ thể:

Xét trên khía cạnh lợi nhuận


Thu nhập ròng từ lãi chiếm tỉ trọng lớn trong lợi nhuận của ngân hàng. Khi lãi suất thị trường thay đổi thì thu nhập từ lãi suất của ngân hàng cũng biến động do những nguồn thu từ danh mục cho vay và đầu tư cũng như chi phí lãi từ các khoản tiền gửi đều bị tác động.

Xem xét khía cạnh lợi nhuận chỉ cho thấy tác động ngắn hạn của lãi suất và không đưa ra được dự báo chính xác về tác động này đối với tình hình chung của ngân hàng.

Xét trên khía cạnh giá trị kinh tế


Gía trị kinh tế của một tài sản là hiện giá của dòng tiền trong tương lai. Biến động lãi suất thị trường có thể tác động lên giá trị thị trường của tài sản có, tài sản nợ và các hạng mục ngoại bảng của ngân hàng.

Theo quan điểm này, khía cạnh giá trị kinh tế phản ánh quan điểm về độ nhạy cảm của giá trị ròng ngân hàng trước biến động lãi suất. Do đó, nó cho thấy tác động lâu dài của biến động lãi suất đối với hoạt động ngân hàng.

1.2.2.5. Quản trị rủi ro lãi suất


Ở Việt Nam, sự thay đổi lãi suất xảy ra thường xuyên và liên tục nên rủi ro lãi suất là điều không thể tránh được đối với công tác quản trị rủi ro của các NHTMCP.

Quản trị rủi ro lãi suất là giảm thiểu những thiệt hại hay tổn thất có thể phát sinh từ sự biến động của lãi suất. Quản trị rủi ro lãi suất tại ngân hàng là việc ngân hàng định lượng những tổn thất đang và sẽ gây ra từ rủi ro lãi suất để từ đó có thể giám sát và kiểm soát rủi ro lãi suất thông qua việc lập nên những chính sách, chiến lược sử dụng các công cụ phòng ngừa và hạn chế đến mức tối đa ảnh hưởng của rủi ro lãi suất tới các hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục.

Mục tiêu quan trọng của hoạt động quản trị rủi ro lãi suất là bảo vệ thu nhập dự kiến ở mức tương đối ổn định bất chấp sự thay đổi của lãi suất. Để đạt được mục tiêu này, ngân hàng phải duy trì tỉ lệ thu nhập lãi cận biên cố định. Đây là hệ số giúp cho ngân hàng dự báo trước khả năng sinh lãi của ngân hàng thông qua việc kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp nhất.

1.3. Các mô hình đo lường rủi ro lãi suất


1.3.1. Mô hình tái định giá


1.3.1.1. Nội dung mô hình


Nội dung mô hình tái định giá là xác định chênh lệch giữa tiền lãi thu được từ tài sản và chi phí trả lãi cho vốn huy động sau một thời gian nhất định do sự thay đổi lãi suất trên thị trường. Để áp dụng mô hình này, trước hết toàn bộ tài sản và nguồn vốn nợ của ngân hàng sẽ được phân thành các nhóm tài sản nhạy cảm với lãi suất theo các mức kì hạn, tính trên cơ sở thời hạn còn lại của tài sản. Cơ sở cho việc phân loại dựa vào mức độ biến động của thu nhập từ lãi suất (đối với tài sản) và chi phí trả lãi (đối với nguồn vốn nợ) khi lãi suất thị trường có sự thay đổi.

1.3.1.2. Các khái niệm liên quan


1.3.1.2.1. Nguồn vốn nhạy cảm lãi suất


Nguồn vốn nhạy cảm lãi suất là những khoản mục nguồn vốn có lãi suất không cố định (lãi suất khả biến) hoặc chịu ảnh hưởng trực tiếp của sự thay đổi lãi suất trên thị trường (thường là huy động vốn thời gian < 12 tháng, những khoản tiền

Xem tất cả 92 trang.

Ngày đăng: 21/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí