Thực Trạng Tự Chứng Nhận Xuất Xứ Ở Việt Nam


phát hành khoảng 6.000 mẫu D cho các nhà xuất khẩu của chúng tôi mỗi tháng. Với việc tự chứng nhận đầy đủ sẽ được thực hiện vào năm 2012, khoảng 850 nhà xuất khẩu có thể sẽ được hưởng lợi từ tổng tiết kiệm hàng năm khoảng 1,08 triệu đô la Singapore.” 79 Tuy vậy, đến năm 2015 cho thấy Singapore có 54 doanh nghiệp trở thành nhà sản xuất được chứng nhận, cho đến năm 2016, số liệu là 65 doanh nghiệp theo cơ chế tự chứng nhận xuất xứ của ATIGA. 80 Con số thực tế cách khá xa so với kì vọng ban đầu.

So sánh giữa cơ chế tự chứng nhận ASEAN là AWSC như đã đề cập ở trên, Singapore cũng vận hành một chế độ tự chứng nhận rộng rãi trong các FTA khác của mình. Trong đó, việc tự chứng nhận của Singapore có thể được thực hiện bởi bất kỳ nhà xuất khẩu nào có đủ kiến thức về xuất xứ sản phẩm. Hơn nữa, Hệ thống này cũng không yêu cầu đăng ký bổ sung tư cách là nhà xuất khẩu đăng ký (certified exporter) hay nhà xuất khẩu được chứng nhận (approved exporter) để có thể tiếp cận được các tài liệu dành cho mục đích chứng nhận xuất xứ. Ví dụ: Singapore đã ban hành Thông tư số 21/2019 của Hải quan Singapore hướng dẫn quy tắc xuất xứ cho ANZSCEP nâng cấp. Trong đó, một nhà nhập khẩu ở New Zealand muốn hưởng ưu đãi thuế quan theo ANZSCEP nâng cấp có thể sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ được hoàn thành bởi nhà xuất khẩu, nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu hoặc đại diện được ủy quyền của nhà xuất khẩu, nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu, của hàng hóa. Tương tự, một nhà nhập khẩu ở Singapore muốn được hưởng ưu đãi thuế quan theo ANZSCEP nâng cấp cho hàng nhập khẩu của họ có thể sử dụng Giấy chứng nhận xuất xứ do nhà xuất khẩu, nhà sản xuất hoặc đại diện được ủy quyền của họ phát hành. Ngoài ra, nhà nhập khẩu Singapore có thể tự hoàn thành Giấy chứng nhận xuất xứ. Giấy chứng nhận xuất xứ theo cơ chế tự chứng nhận được quy định phải bao gồm các yêu cầu dữ liệu tối thiểu được ghi trong đoạn 3, Điều 3.18 của Chương 3 ANZSCEP nâng cấp81. Như vậy, có thể thấy rằng


79 Singapore Customs (2010), Singapore Customs Media Release, tham khảo tại https://www.customs.gov.sg/news-and-media/media-releases/2010-11-18-MR.pdf , truy cập ngày 10/1/2022 80 GS.Sukegawa (2017), ASEAN FTA 戦 略 と 企 業 の 利 用 (Sử dụng chiến lược FTA trong ASEAN và

doanh nghiệp), tham khảo tại https://www.asean.or.jp/ja/wp-content/uploads/sites/2/2017/11/3_Associate- Prof.Sukegawa.pdf , truy cập ngày 10/1/2022

81 Điều 9 Thông tư số 21/2019 Hải Quan Singapore, tham khảo tại https://www.customs.gov.sg/news-and- media/circulars/2019-12-20-Circular212019.pdf


Singapore đã và đang vận hành một hệ thống tự chứng nhận xuất xứ khác cởi mở và dễ dàng hơn trong các FTA, chủ yếu là FTA song phương.

Thách thức đặt ra cho Singapore như một quốc gia trụ cột trong ASEAN là hướng tới một hệ thống tự chứng nhận ở mức hài hòa hơn, vừa phù hợp với các quốc gia ASEAN có trình độ phát triển chênh lệch nhau, vừa thuận lợi và dễ dàng hơn cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại quốc tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

Tiểu kết chương 2: Qua việc phân tích kinh nghiệm của Nhật Bản, EU và Singapore, Chương 2 đã đưa ra đánh giá về các tiến bộ cũng như hạn chế khi áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ của các quốc gia này. Từ những đánh giá này, tác giả sẽ rút ra những nhận xét làm nền tảng cơ sở cho các kiến nghị nêu lên tại Chương 3.

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG TỰ CHỨNG NHẬN XUẤT XỨ

Tự chứng nhận xuất xứ kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam - 9

TẠI VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC DỰA TRÊN KINH NGHIỆM QUỐC TẾ


Chương 2 đã nêu ra thực tế áp dụng tự chứng nhận xuất xứ tại Nhật Bản, EU và Singapore cũng như đưa ra những nhận xét đánh giá của tác giả về ưu nhược điểm của hệ thống tại các quốc gia này. Vì vậy, trên cơ sở tổng hợp lý luận trong Chương 1 và phân tích tại Chương 2, Chương 3 của luận văn sẽ nêu lên thực trạng về áp dụng tự chứng nhận xuất xứ ở Việt Nam và đề xuất bài học cho Việt Nam về áp dụng các quy định của pháp luật trong tự chứng nhận xuất xứ cũng như một vài giải pháp để cơ chế tự chứng nhận xuất xứ được áp dụng hiệu quả cho cả doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý.

3.1. Thực trạng tự chứng nhận xuất xứ ở Việt Nam


3.1.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về tự chứng nhận xuất xứ của Việt Nam


Việt Nam bắt đầu biết đến và thực hiện về tự chứng nhận xuất xứ bằng việc tham gia thí điểm tự chứng nhận xuất xứ theo Dự án thí điểm số 2 trong Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) vào tháng 9 năm 2014. Như vậy, tới nay Việt Nam đã trải qua 8 năm phát triển cơ chế này.

Cho tới thời điểm hiện tại, Việt Nam đang hoặc đang chuẩn bị để tham gia áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ trong các Hiệp định thương mại tự do là


ATIGA, EVFTA, CPTPP, RCEP; ngoài ra còn có theo yêu cầu từ cơ chế của nước nhập khẩu ví dụ như khi xuất khẩu đi các nước EU. Như vậy, đối với hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam thì doanh nghiệp Việt Nam được phép tự chứng nhận xuất xứ theo những khuôn khổ như sau:

- Cơ chế của ATIGA thông qua hệ thống AWSC: hàng hóa xuất khẩu sang các nước thuộc khu vực ASEAN

- Cơ chế của EVFTA: hàng hóa xuất khẩu đi các nước EU có trị giá dưới

6.000 Euro.

- Cơ chế xuất khẩu đi các nước EU trong GSP: doanh nghiệp đăng ký tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo hệ thống REX

- Cơ chế của CPTPP: hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào các nước CPTPP (Việt Nam đang bảo lưu thực hiện tự chứng nhận xuất xứ)

- Cơ chế của RCEP: nhà xuất khẩu đủ điều kiện tự chứng nhận xuất xứ (Việt Nam đang bảo lưu thực hiện tự chứng nhận xuất xứ)

3.1.2.1. Áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo Hiệp định ATIGA:


Cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định ATIGA là cơ chế doanh nghiệp được cấp phép (certified exporter). Cơ chế này chỉ cho phép các doanh nghiệp được cơ quan có thẩm quyền cho phép mới được tự chứng minh xuất xứ hàng hóa. Để đối chiếu, kiểm tra và quản lý các doanh nghiệp đã được cho phép tự chứng nhận này, các nước thành viên sẽ cập nhật danh sách doanh nghiệp lên trang điện tử của ASEAN và cơ quan Hải quan sẽ lên trang web này để kiểm tra đối chiếu. 82

Xuất phát từ mong muốn thúc đẩy sự tự do trong lưu thông hàng hóa nội trong cộng đồng, ASEAN đã đặt ra cơ chế Tự chứng nhận xuất xứ ASEAN. Cơ chế này được thực thi thông qua dự án thí điểm lần 1 có sự tham gia của Brunei, Malaysia, Singapore, và Thái Lan. Dự án thí điểm lần thứ 2 có sự tham gia của Philippines, Indonesia, Lào và Việt Nam. Với mục tiêu đáp ứng các yêu cầu trong dự án thí


82 Trung tâm WTO, Điểm khác biệt về cơ chế tự chứng nhận xuất xứ của các FTA thế hệ mới, tham khảo tại https://trungtamwto.vn/tin-tuc/17335-diem-khac-biet-ve-co-che-tu-chung-nhan-xuat-xu-cua-cac-fta-the-he- moi, truy cập ngày 10/1/2022


điểm lần 2 này, Bộ Công Thương đã nội luật hóa bằng cách lần lượt ban hành Thông tư số 28/2015/TT-BCT, Thông tư số 27/2017/TT-BCT và mới đây nhất là Thông tư số 19/2020/TT-BCT.

Trong dự án thí điểm của ATIGA, tiêu chí lựa chọn chung cho nhà xuất khẩu của các nước tham gia thí điểm để được trở thành nhà xuất khẩu được chứng nhận là khá nhiều, có thể kể đến như sau: nhà xuất khẩu thường xuyên giao dịch với giá trị giao dịch hợp lý, nhà xuất khẩu có thành tích tốt trong quá khứ, nhà xuất khẩu đã luôn tuân thủ tốt trong thời gian sử dụng hệ thống chứng nhận, có lịch sử thường xuyên được cấp giấy chứng nhận xuất xứ theo ATIGA, nhà xuất khẩu có sản phẩm quan trọng để hỗ trợ một thị trường và cơ sở sản xuất duy nhất, ngoài ra còn có những tiêu chí như nhà xuất khẩu có danh tiếng về quản lý tài chính tốt và khả năng tài chính, có các phương tiện lưu trữ hồ sơ tốt đáp ứng yêu cầu kiểm tra và thanh tra, có đủ hiểu biết về quy tắc xuất xứ, nhà xuất khẩu được lựa chọn sẽ cần tham gia các buổi nâng cao năng lực tự chứng nhận,v.v...83

Dựa trên các tiêu chí chung đó, Bộ Công Thương đã quy định cụ thể tại Thông tư số 28/2015/TT-BCT ngày 20/8/2015 các tiêu chí về doanh nghiệp được phép tham gia đã được Việt Nam lựa chọn như sau tại Điều 4:

“(i) Là nhà sản xuất đồng thời là người xuất khẩu hàng hóa do chính thương nhân sản xuất;

(ii) Không vi phạm quy định về xuất xứ trong hai (02) năm gần nhất tính đến thời điểm nộp hồ sơ đăng ký;

(iii) Kim ngạch xuất khẩu đi ASEAN được cấp C/O mẫu D năm trước liền kề đạt tối thiểu 10 triệu đô la Mỹ;

(iv) Có cán bộ được đào tạo, được cấp chứng chỉ hoặc chứng nhận về xuất xứ hàng hóa do đơn vị đào tạo được Bộ Công Thương chỉ định cấp.”


83 Hirotoshi Ito (2014), Self-certification system in ASEAN, JETRO, tham khảo tại http://www.wcoomd.org/-

/media/wco/public/global/pdf/events/2013/wco-origin-conference-2014/43-jetroito.pdf?la=fr, tr.12 , truy cập ngày 10/1/2022


Mới đây nhất, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 19/2020/TT-BCT ngày 31/03/2020 về “Sửa đổi, bổ sung các thông tư Quy định thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hóa trong hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN”. Trong đó, tiêu chí về doanh nghiệp được tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa đã được bổ sung, thay đổi như sau:

“(i) Là nhà xuất khẩu đồng thời là nhà sản xuất.


(ii) Không vi phạm quy định về xuất xứ hàng hóa trong 02 năm gần nhất tính đến thời điểm nộp hồ sơ đăng ký tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa.

(iii) Có cán bộ được đào tạo về xuất xứ hàng hóa do đơn vị đào tạo đã được Bộ Công Thương hoặc được Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) chỉ định.

Ngoài quy định tại khoản 1 Điều này, thương nhân đề nghị được tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo cơ chế AWSC nếu đáp ứng các quy định sau:

+ Đã được cấp C/O ưu đãi đối với hàng hóa cùng nhóm HS (4 số) trong 02 năm gần nhất tính đến thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Văn bản chấp thuận.

+ Trong trường hợp nhà xuất khẩu không phải là nhà sản xuất, nhà xuất khẩu phải được nhà sản xuất cam kết bằng văn bản về xuất xứ của hàng hóa xuất khẩu và sẵn sàng hợp tác trong trường hợp kiểm tra hồ sơ, chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa và kiểm tra, xác minh tại cơ sở sản xuất.”84

Như vậy, Thông tư mới đã bỏ quy định về kim ngạch xuất khẩu tối thiểu 10 triệu đô la Mỹ, đồng thời bổ sung thêm điều kiện tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo cơ chế tự chứng nhận xuất xứ trong ASEAN (ASEAN Wide Self Certification, AWSC). Việc bỏ quy định kim ngạch xuất khẩu tối thiểu 10 triệu USD là bước đi tạo điều kiện rất lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ được tham gia vào cơ chế.

Từ sau khi Việt Nam tham gia vào Dự án thí điểm số 2 về tự chứng nhận xuất xứ vào tháng 9/2014, số lượng doanh nghiệp Việt Nam được cấp phép để thực hiện tự chứng nhận xuất xứ chỉ mới dừng lại ở con số 4, bao gồm: Công ty TNHH Procter & Gamble Đông Dương, Công ty CP sữa Vinamilk, Công ty TNHH Nestle


84 Khoản 4, Điều 3, Thông tư số 19/2020/TT-BCT


Việt Nam và Công ty TNHH Sài Gòn Precision. Đến nay 2019, con số doanh nghiệp được cấp phép tăng lên là 6. Có thể thấy rằng số lượng doanh nghiệp trở thành doanh nghiệp được cấp phép thực hiện tự chứng nhận xuất xứ vẫn còn rất khiêm tốn so với các nước trong khu vực như Thái Land: 83 doanh nghiệp, Malaysia: 118 doanh nghiệp85. Hy vọng với sự thay đổi trong quy định pháp luật, trong tương lai gần sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng được những tiêu chuẩn này, đặc biệt là trong bối cảnh Nghị định thư thứ nhất sửa đổi Hiệp định ATIGA đã có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 20/9/2020, và đồng thời ASEAN chính thức áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ AWSC.

3.1.2.2. Áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo Hiệp định CPTPP:

Hiệp định CPTPP áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ cho nhà xuất khẩu, mở rộng hơn nữa là cả nhà nhập khẩu, nhà sản xuất cũng có thể tự chứng nhận xuất xứ. Điều đó có nghĩa là tất cả doanh nghiệp tham gia vào việc xuất nhập khẩu đều được tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Yêu cầu đối với nhà sản xuất, nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu được nêu ra riêng biệt tại Hiệp định CPTPP tại Điều 3.21:

- đối với nhà sản xuất : chứng nhận xuất xứ hàng hoá được thực hiện trên cơ sở nhà sản xuất có thông tin chứng minh được hàng hoá có xuất xứ.

- đối với nhà xuất khẩu (the exporter) trong trường hợp nhà xuất khẩu không phải là nhà sản xuất: chứng nhận trên cơ sở nhà xuất khẩu có thông tin chứng minh hàng hoá có xuất xứ hoặc dựa vào thông tin của nhà sản xuất cung cấp một cách hợp lý

- đối với nhà nhập khẩu (importer): chứng nhận xuất xứ có thể được thực hiện bởi nhà nhập khẩu trên cơ sở nhà nhập khẩu có tài liệu chứng minh hàng hoá có xuất xứ hoặc dựa vào chứng từ được cung cấp bởi nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất.


85Singapore Customes, Handbook for Singapore Customs Authorised Self-Certification regimes (12/2021), tham khảo tại https://www.customs.gov.sg/files/businesses/Handbook%20on%20the%20implementation%20of%20the%20 Authorised%20Self%20Certification%20Regime%20V2_final.pdf, truy cập ngày 10/1/2022


Về mặt chứng từ, Hiệp định CPTPP cũng quy định cụ thể về các thông tin tối thiểu cần phải thể hiện trên chứng từ tự chứng nhận xuất xứ. Cơ quan Hải quan dựa vào thông tin chứng từ tự chứng nhận xuất xứ và hồ sơ hải quan để kiểm tra, xác định xuất xứ cho hàng hóa.

Hiệp định CPTPP có hiệu lực thực hiện bắt đầu từ ngày 14/1/2019 đối với tất cả các quốc gia thành viên trong Hiệp định. Tuy vậy, với năm quốc gia là Brunei, Mexico, Malaysia, Peru và Việt Nam thì không bắt buộc bắt buộc phải áp dụng ngay cơ chế tự chứng nhận xuất xứ. Theo đó, với tư cách là nước xuất khẩu thì Việt Nam được cho phép cùng tổn tại cả chế độ chứng nhận của bên thứ ba và tự chứng nhận xuất xứ trong vòng năm năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, và được gia hạn thêm tối đa là 5 năm nữa. Do vậy, hiện nay Việt Nam chưa áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ theo CPTPP, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào các nước CPTPP vẫn theo chứng nhận xuất xứ là cấp C/O bởi Bộ Công Thương.

3.1.2.3. Áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa đối với Liên Minh Châu Âu:

Hiện tại, Việt Nam và Liên Minh Châu Âu đang cùng tham gia Hiệp định thương mại lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam là EVFTA. Theo đó, trong Hiệp định này, Việt Nam được lựa chọn cơ chế chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba, hoặc tự chứng nhận xuất xứ. Trong hai cơ chế này, cơ chế chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba hay cơ quan có thẩm quyền là cơ chế đã rất quen thuộc, cơ chế tự chứng nhận xuất xứ là cơ chế mới mẻ đối với Việt Nam. Quy định dành cho chứng minh xuất xứ hàng hóa nguồn gốc từ Việt Nam xuất khẩu sang EU, và hàng hóa từ EU nhập khẩu vào Việt Nam được áp dụng khác nhau.

Khi hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu vào EU:


Việt Nam kí kết Hiệp định EVFTA với EU, đồng thời cũng nằm trong danh sách được hưởng ưu đãi thuế quan theo chương trình GSP của EU. Như vậy, trong hai năm sau khi EVFTA có hiệu lực, tức là cho đến 1/08/2022, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang EU vẫn có sự lựa chọn giữa 2 cơ chế ưu đãi thuế là GSP


và EVFTA, tùy theo cơ chế mà doanh nghiệp thấy có lợi hơn về kinh tế cũng như dễ dàng hơn về mặt thủ tục.

a) Trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam muốn được hưởng ưu đãi thuế theo hệ thống GSP, nhà xuất khẩu cần phải chứng nhận xuất xứ theo hình thức đăng ký mã số REX (Registered Exporter) đối với lô hàng có giá trị nhất định. REX là cơ chế được Liên Minh Châu Âu (EU) sử dụng, cho phép nhà xuất khẩu được phép tự chứng nhận xuất xử đối với hàng hóa của mình86. Từ ngày 01/01/2019, EU chính thức áp dụng tự chứng nhận xuất xứ theo hệ thống REX, theo đó hệ thống này thay thế hệ thống cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa mẫu A của Việt Nam.

-Đối với những lô hàng có trị giá dưới 6000 EURO thì bất kỳ nhà xuất khẩu cũng có thể tự chứng nhận xuất xứ cho hàng hóa của mình. Sau đó, nhà xuất khẩu có trách nhiệm báo cáo, đăng tải chứng từ tự chứng nhận xuất xứ và chứng từ liên quan đến lô hàng xuất khẩu lên trang web: www.ecosys.gov.vn. Cơ chế tự khai báo xuất xứ cho phép nhà xuất khẩu tự chịu trách nhiệm về xuất xứ của hàng hóa.

-Đối với những lô hàng có giá trị trên 6000 EURO thì bắt buộc phải có mã số REX . Doanh nghiệp có mã số REX sẽ được tự chứng nhận xuất xứ cho hàng hóa của mình trên chứng từ thương mại. Cơ quan Hải quan căn cứ mã số REX của doanh nghiệp, kiểm tra trên trang điện tử của EU và hồ sơ hải quan để xác định xuất xứ hàng hóa. Trong trường hợp nhà xuất khẩu không đạt yêu cầu của EU để tự chứng nhận xuất xứ, nhà xuất khẩu phải quay về cơ chế chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba. Nghĩa là nhà xuất khẩu Việt Nam cần lấy C/O mẫu EUR.1 do cơ quan, tổ chức được Bộ Công Thương ủy quyền cấp.

b) Trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu hàng hóa vào EU với mức thuế ưu đãi của EVFTA, doanh nghiệp sử dụng Giấy chứng nhận xuất xứ mẫu EUR.187. Đây là hình thức chứng nhận xuất xứ truyền thống, xuất xứ hàng hóa được xác nhận bởi cơ quan có thẩm quyền mà Việt Nam vẫn bảo lưu và tiếp tục áp dụng sau khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực.


86 tham khảo thêm nội dung Chương 2

87 Phụ lục VII, Nghị định thư 1 EVFTA

Xem tất cả 98 trang.

Ngày đăng: 12/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí