Vai Trò Của Nước Và Khả Năng Tiếp Cận Nguồn Nước Phục Vụ Sản Xuất Nông Nghiệp


vùng và lưu vực sông hiện nay đã thuộc loại thiếu nước và hiếm nước, như vùng ven biển Ninh Thuận - Bình Thuận, hạ lưu sông Đồng Nai. Đó là chưa xét đến khả năng một phần đáng kể lượng nước được hình thành ở nước ngoài sẽ bị sử dụng và tiêu hao đáng kể trong phần lãnh thổ đó.

Hơn nữa, nguồn nước sông tự nhiên trong mùa cạn lại khá nhỏ chỉ chiếm khoảng 10 - 40% tổng lượng nước toàn năm, thậm chí bị cạn kiệt và ô nhiễm, nên mức bảo đảm nước trong mùa cạn nhỏ hơn nhiều so với mức bảo đảm nước trung bình hàng năm.

Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội và sự gia tăng dân số, nhu cầu dùng nước cho sinh hoạt, sản xuất công nông nghiệp sẽ tăng lên mạnh mẽ trong tất cả các vùng. Theo kết quả đánh giá năm 1999, tổng lượng nước cần dùng của cả nước chiếm khoảng 8,8% tổng lượng dòng chảy năm tương ứng với tần suất 75%, tăng lên tới 12,5% vào năm 2000 và 16,5% vào khoảng năm 2010. Tổng lượng nước dùng để tưới cho cây trồng khá lớn, từ 41 km3 (chiếm 89,8%) năm 1985, tăng lên 46,9 km3 (năm 1990) và 60 km3 năm 2000 (chiếm 85%). Lượng nước cần dùng trong mùa cạn rất lớn, nhất là lượng nước dùng cho nông nghiệp. Tổng lượng nước cần dùng trong mùa cạn năm 2000 đạt tới 70,7 km3, chiếm khoảng 42,4% tổng lượng nước có khả năng cung cấp trong mùa cạn (bao gồm nước sông, nước dưới đất và nước do các hồ chứa điều tiết), hay 51% tổng lượng dòng chảy mùa cạn tương ứng với tần suất 75%. Vào khoảng năm 2010, tổng lượng nước cần dùng trong mùa cạn có thể tới 90 km3, chiếm khoảng 54% tổng lượng nước có thể cung cấp hay 65% tổng lượng dòng chảy trong mùa cạn tương ứng với tần suất 75%. Đặc biệt, ở không ít vùng và lưu vực sông, lượng nước cần dùng có thể gấp vài lần tổng lượng nước có thể cung cấp, tức là chẳng những vượt quá xa ngưỡng lượng nước cần có để duy trì sinh thái mà còn không có nguồn nước tại chỗ để cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất [11].


Tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ đến nguồn tài nguyên nước. Theo đánh giá bước đầu, vào khoảng năm 2070, với kịch bản nhiệt độ không khí tăng thêm 2,5 - 4,50C, lượng dòng chảy sông ngòi cũng sẽ biến đổi tuỳ theo mức độ biến đổi của lượng mưa, nếu lượng mưa giảm 10% thì dòng chảy năm có thể giảm 17 - 53% đối với kịch bản nhiệt độ không khí tăng 2,50C và giảm 26 - 90% với kịch bản nhiệt độ không khí tăng 4,50C. Mức độ biến đổi mạnh nhất xẩy ra ở Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ [11].

Ngoài ra, trái đất nóng lên sẽ làm cho nước biển có thể dâng cao thêm 0,3 - 1,0m và do đó nhiều vùng thấp ở đồng bằng sông Cửu Long, vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ và ven biển Trung Bộ sẽ bị ngập chìm trong nước biển. Nếu nước biển dâng 1 m, diện tích ngập lụt là 40.000 km2, chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long, 1700 km2 vùng đất ngập nước cũng bị đe doạ và 17 triệu người sẽ chịu hậu quả của lũ lụt [11].

Cuối cùng, sự cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước cũng như sự khan hiếm nguồn nước sẽ càng trầm trọng nếu không có các biện pháp quản lý tốt tài nguyên nước. Cũng vì lẽ đó mà người ta cho rằng, khủng hoảng nước hiện nay không chỉ do nước quá ít không đủ để thoả mãn nhu cầu của con người mà còn do sự quản lý nguồn nước quá kém gây nên hàng tỷ người và môi trường gánh chịu hậu quả.

* Thực trạng và nguyên nhân gây lãng phí nguồn nước sản xuất nông nghiệp

1. Các hiện tượng chính gây lãng phí, thất thoát nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp, bao gồm:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Tổn thất trong quá trình dẫn nước từ công trình đầu mối đến mặt ruộng, do ngấm, kênh bị bồi lắng, sạt lở... cản trở dòng chảy, thiếu các công trình điều tiết nước cho từng khu tưới.


Ảnh hưởng của việc tiếp cận nguồn nước đến thu nhập của hộ nông dân xã Tân Lập, huyện Chợ Đồn, Bắc Kạn - 3

Tưới ngập thường xuyên: Đây là biện pháp tưới truyền thống, phù hợp tưới cho lúa. Tuy nhiên, theo kết quả nhiều công trình nghiên cứu, việc tưới nước cho cây lúa theo quy trình “nông, lộ, phơi” sẽ mang lại hiệu quả kinh tế nhất, tức là có những thời kỳ chúng ta hạn chế cấp nước mà phải để lộ ruộng và phơi ruộng theo yêu cầu sinh trưởng của cây trồng. Việc tưới ngập thường xuyên suốt vụ theo tập quán của nông dân đã gây ra lãng phí nước rất lớn, chưa kể tình trạng lượng nước dư thừa từ ruộng chảy xuống kênh tiêu.

Chưa có biện pháp tích cực hạn chế bốc hơi mặt thoáng: Đây là hiện tượng tự nhiên cũng gây tổn thất nước rất lớn, ví dụ: tổng lượng bốc hơi bình quân tại trạm Tuyên Quang là 1.193,9mm/năm, lượng mưa là 1.145,8 mm/năm; tại trạm Phan Rang - Ninh Thuận, tổng lượng nước bốc hơi bình quân là 1.730 mm/năm, trong khi đó lượng mưa có 815 mm/năm. Trước đây, người nông dân có phong trào dùng bèo phủ lên mặt thoáng của ruộng, xung quanh gốc cây trồng, vừa hạn chế bốc thoát hơi nước và làm phân xanh, tăng cường độ đạm trong đất. Hiện nay, phong trào đó không còn, một vài địa phương, người dân dùng ni lông để che phủ cho một số loại cây trồng, nhưng chi phí tốn kém.

Tưới tràn, vượt quá khu vực cây trồng có khả năng sử dụng được nước tưới: Điều này xảy ra đối với việc cấp nước cho cây công nghiệp, cây ăn quả, khi chúng ta tưới nước để chẩy tràn trên mặt đất.

Tưới quá nhiều làm nước thấm quá sâu so với chiều sâu bộ rễ cây trồng: Cây trồng chỉ có khả năng hấp thụ nước trong phạm vi của rễ cây, nếu chúng ta tưới nhiều, nước sẽ ngấm sâu hơn so với chiều sâu của bộ rễ, gây lãng phí.

Tưới tiết kiệm nước và sử dụng nước tiết kiệm là những biện pháp cấp nước theo yêu cầu và khả năng hấp thụ nước theo từng thời đoạn sinh trưởng của cây trồng, hạn chế lượng nước dư thừa nhưng không ảnh hưởng đến năng


suất, chất lượng cây trồng. Vụ 3 năm 2005, Chi cục bảo vệ thực vật tỉnh An Giang đã thử nghiệm xây dựng mô hình tưới tiết kiệm nước cho lúa trên diện tích 17,3 ha của 19 hộ nông dân tại phường Mỹ Thới, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang (trong đó: 8,3 ha của 9 hộ nông dân sử dụng biện pháp tưới tiết kiệm nước; 9 ha của 10 hộ nông dân còn lại sử dụng biện pháp tưới truyền thống để đối chứng). Bằng việc đặt ống theo dòi mực nước trong ruộng và áp dụng biện pháp tưới ướt khô xen kẽ của Viện Nghiên cứu Lúa quốc tế (IRRI), nông dân làm thí nghiệm đã giảm bình quân 4 lần bơm nước vào ruộng trong 1 vụ lúa, so với 8 lần bơm nước theo tập quán nông dân, tiết kiệm nước tưới, ít sâu bệnh, giảm được 7,9% số diện tích bị đổ ngã, tỷ lệ chắc chiếm 78,2%, cho năng suất 5,8 tấn/ha, tăng 0,5 tấn/ha so với ruộng đối chứng. Giá thành sản xuất của ruộng ""tưới tiết kiệm"" chỉ 1.142 đồng/kg lúa, trong khi ruộng đối chứng tới 1.382 đồng/kg, mức chênh lệch 240 đồng/kg. (Nguồn NNVN).

Như vậy, áp dụng biện pháp tưới cổ truyền đã làm cho lượng nước tưới lãng phí rất lớn.

Theo số liệu thống kê, hiện tại các hệ thống công trình thuỷ lợi đảm bảo tưới cho 7,61 triệu ha lúa, nếu với mức tưới bình quân 4.500 m < sup >3 < / sup > / ha - vụ, chỉ cần tiết kiệm được 10% lượng nước tưới thì sẽ tiết kiệm khoảng 3 tỷ m3 nước. Trong khi đó, để xây dựng hồ chứa Nước Trong thuộc tỉnh Quảng Ngãi chỉ có dung tích 258 triệu m3 đã phải tốn gần 1.642 tỷ đồng. Như vậy, nếu chúng ta tiết kiệm được nước tưới sẽ tiết kiệm được chi phí đầu tư, xây dựng công trình thuỷ lợi và chi phí xã hội rất lớn.

2. Nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp, bao gồm:

Để xẩy ra hiện tượng lãng phí, thất thoát nước, ngoài nguyên nhân về công trình, trang thiết bị chưa được đầu tư xây dựng, nâng cấp sửa chữa, còn do những hạn chế trong công tác quản lý. Cụ thể:


Công trình chưa có chủ thực sự: Theo Pháp lệnh khai thác &BVCTTL, các công trình thuỷ lợi do các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi và các hợp tác xã dùng nước quản lý, nhưng hầu hết các địa phương đều chưa phân cấp rò đâu là công trình do doanh nghiệp quản lý, công trình do hợp tác xã dùng nước quản lý. Tình trạng vi phạm phạm vi bảo vệ công trình diễn ra ngày một nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả cấp nước của công trình. Kể cả công trình đã được phân cấp nhưng quyền hạn và trách nhiệm chưa rò ràng:

+ Đối với công trình do doanh nghiệp quản lý: Do không có hoặc thiếu kinh phí quản lý, nâng cấp, sửa chữa nên doanh nghiệp quản lý theo kiểu có đến đâu sửa đến đó, công trình còn đến đâu phục vụ đến đó, chỉ tập trung chủ yếu vào sửa chữa máy móc thiết bị, còn phần công trình, kênh mương gần như bỏ ngỏ. Chủ của các công trình này là Nhà nước và giao cho Giám đốc doanh nghiệp quản lý, nhưng do cơ chế, chính sách trong quản lý khai thác chưa đồng bộ, thiếu kính phí nên công trình xuống cấp, hư hỏng cũng không ai chịu trách nhiệm.

+ Đối với công trình do hợp tác xã dùng nước quản lý (hiện nay chủ yếu là hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp quản lý): Chủ nhiệm hợp tác xã do xã viên bầu, chế độ tiền lương thấp, nên hầu hết làm việc theo kiểu “được chăng hay chớ”, còn bầu thì làm, không thì nghỉ, các chế tài quản lý chưa đầy đủ, nên trách nhiệm rất hạn chế. Trình độ chuyên môn của cán bộ thuỷ nông hầu như không có, chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm và lòng nhiệt tình. Chủ của các công trình này là tập thể xã viên hợp tác xã nên không có ai chịu trách nhiệm một cách cụ thể, công trình còn hoạt động được thì hợp tác xã quản lý vận hành, khi công trình hư hỏng thì bàn giao trả Nhà nước.

Các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý khai thác công trình thuỷ lợi còn thiếu và chưa đồng bộ như các văn bản về hướng dẫn về tổ


chức quản lý, chế độ tài chính, phân cấp công trình... Bên cạnh đó, nhiều địa phương chưa triển khai thực thi đầy đủ các văn bản đã có.

Ý thức sử dụng nước của người nông dân chưa cao: Họ thường coi nước là ""của trời"", công trình cấp nước đã có Nhà nước đầu tư, bản thân họ đã đóng thuỷ lợi phí nên họ phải sử dụng cho “đủ”. Kiến thức sử dụng nước của hầu hết người dân còn nhiều hạn chế, họ không được trang bị kiến thức về yêu cầu nước tưới theo từng thời kỳ sinh trưởng của cây trồng... dẫn đến tình trạng lấy nước quá nhiều, dư thừa.

Trách nhiệm giữa đơn vị cung cấp nước và người hưởng lợi được thực hiện thông qua hợp đồng kinh tế nhưng chưa rò ràng và chưa nghiêm túc. Theo Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, đơn vị cung cấp nước và đơn vị sử dụng nước có trách nhiệm ký kết hợp đồng kinh tế ngay từ đầu vụ làm cơ sở để thực hiện và thanh quyết toán vào cuối vụ sản xuất. Nhưng thực tế nhiều địa phương xảy ra tình trạng đơn vị sử dụng nước ký hợp đồng thấp hơn so với diện tích thực phục vụ và chây ỳ trong việc thanh toán thuỷ lợi phí (từ năm 1999 đến năm 2003 cả nước nợ đọng thuỷ lợi phí 332,450 tỷ đồng). Đây là hiện tượng vi phạm hợp đồng kinh tế nhưng Nhà nước cũng chưa có chế tài cụ thể. Dẫn đến tình trạng các đơn vị cung cấp nước không có kinh phí tu bổ công trình đảm bảo dẫn nước.

1.1.1.3. Vai trò của nước và khả năng tiếp cận nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp

Nước là một loại vật chất đặc biệt, chiếm 3/4 bề mặt trái đất. Trong cấu trúc động, thực vật thì nước chiếm tới 95 - 99% trọng lượng các laòi cây dưới nước, 80% trọng lượng các loài cá, 70% các loại cây trên cạn, 65 - 75% trọng lượng con người và các động vật [11].

Nước là nền tảng của sự sống, không một sinh vật nào có thể sống thiếu nước. Nước là điều kiện đầu tiên xác định sự sinh tồn của sự sống, của con


người cũng như của nền sản xuất nông nghiệp. Từ đó thấy được nghĩa vụ của mình trong việc giữ gìn và bảo vệ nguồn tài nguyên nước.

Do nguồn tài nguyên nước phân bố không đều, đối với Việt Nam, tài nguyên nước ẩn chứa nhiều yếu tố không bền vững. Các kết quả nghiên cứu gần đây ở Việt Nam dự báo, tổng lượng nước mặt của nước ta vào năm 2025 chỉ bằng khoảng 96%, đến năm 2070 xuống còn khoảng 90% và năm 2100 chỉ còn khoảng 86% so với hiện nay.

1.1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài

1.1.2.1. Đánh giá nguồn nước tại một số tỉnh khó khăn miền núi phía Bắc

Gắn phát triển kinh tế - xã hội với thực hiện các chính sách dân tộc, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ môi trường sinh thái cho vùng và hạ lưu ở đồng bằng Bắc Bộ; góp phần giữ vững an ninh quốc phòng”. Để thực hiện được mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội ở 6 tỉnh miền núi phía Bắc đặc biệt khó khăn cần thiết phải đầu tư cơ sở hạ tầng nói chung, cấp nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất nói riêng.

Trên địa bàn các tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc có tổng diện tích tự nhiên 58.265 km2, dân số 3,405 triệu người, được chia ra 956 đơn vị cấp xã, trong đó có 444 xã, bản với số dân 1,403 triệu người thường xuyên thiếu nước sinh hoạt và sản xuất [6]. Nguồn nước hiện nay được sử dụng chủ yếu là nước tại các nguồn lộ, nước khe, nước suối với lưu lượng rất hạn chế, hơn thế nữa các nguồn nước này đều không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh cho ăn uống và sinh hoạt. Các cao nguyên đá vôi thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu có địa hình karst phân cắt mạnh không có điều kiện tàng trữ nước mặt, nguồn nước cho sinh hoạt thường xuyên thiếu trầm trọng đặc biệt về mùa khô. Một số tỉnh như: Sơn La, Lai Châu, Điện Biên có nhu cầu lớn về nước sạch phục vụ các khu di dân, tái định cư, các công trình thuỷ điện. Để từng bước giải quyết những khó khăn về nước cho đồng bào các dân tộc vùng cao thuộc 6 tỉnh miền núi phía Bắc (Sơn La, Lai


Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn) cần thiết phải tiến hành điều tra, đánh giá khai thác nguồn nước ngầm.

Công tác điều tra, đánh giá nước dưới đất phục vụ cấp nước cho nhân dân ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung, trong đó có các tỉnh đặc biệt khó khăn. Kết quả đạt được là rất đáng khích lệ, tính riêng năm 2002 đã điều tra, đánh giá được trữ lượng khai thác 18.521 m3/ngày có khả năng cung cấp nước sạch cho 300.000 người (mức 60 lít/người/ngày) [13]. Các công trình được lắp máy bơm điện để khai thác, có bể chứa nước và bàn giao trực tiếp các công trình cấp nước cho địa phương, kịp thời đáp ứng một phần nhu cầu cấp thiết về nước sinh hoạt cho nhân dân các huyện Mộc Châu, Yên Sơn (Sơn La); Mường Lay (Lai Châu); Mường Khương (Lào Cai); Quản Bạ (Hà Giang); Trùng Khánh (Cao Bằng) và Chợ Đồn (Bắc Kạn). Tuy nhiên, so với số vùng, số dân còn chưa có nước sạch để sử dụng cần phải điều tra đáp ứng thì những kết quả trên còn rất nhỏ

Do đó, để góp phần tích cực thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội tại các tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ thì việc đầu tư thực hiện dự án điều tra, đánh giá nước dưới đất trên địa bàn các tỉnh theo phương châm điều tra kết hợp khai thác cấp nước sạch tại chỗ cho dân là rất cấp thiết.

Sáu tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc có dạng địa hình chủ yếu là núi cao, cao nguyên và các thung lũng giữa núi nhỏ hẹp, dốc đứng. Mức độ phân cắt địa hình lớn, độ cao trung bình 1000 - 1500m. Do góc dốc địa hình lớn nên các dòng mặt có trong vùng thường là các dòng tạm thời. Về mùa mưa các dòng này hầu như cạn kiệt trơ đáy.

Về tiền đề địa chất, địa chất thuỷ văn: Vùng nghiên cứu tồn tại các thể địa chất từ già nhất đến trẻ nhất phân bố đan xen, nhiều khi không theo quy luật do các hoạt động nội ngoại sinh. Nguồn gốc thạch học đa dạng gồm: trầm tích, biến chất, macma và các sản phẩm phong hoá. Hoạt động tân kiến tạo và

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 16/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí