- Phổ cập kiến thức, tuyên truyền nhận thức đúng về TMĐT, trước tiên là cho các DN và các cơ quan Chính phủ.
- Xây dựng được hạ tầng CNTT tiên tiến, đáp ứng nhu cầu giao dịch TMĐT trên mạng, sẵn sàng cho mọi giao dịch trong nước và thế giới.
- Củng cố, hoàn thiện hành lang pháp lý làm cơ sở cho việc điều chỉnh hoạt động TMĐT.
- Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho hệ thống thanh toán điện tử, đảm bảo khả năng phát triển nhanh chóng của giao dịch TMĐT trên mạng.
- Phát triển các sản phẩm mật mã áp dụng trong TMĐT, đặc biệt cần chú trọng phát triển hạ tầng mã khóa công khai.
- Mở rộng các hình thái giao dịch của TMĐT cho các DN (kể cả DN nhà nước và tư nhân), các giao dịch bao gồm từ việc chào hàng, đàm phán, ký kết hợp đồng đến việc thanh toán qua mạng, v.v…
- Thiết lập hệ thống tiêu chuẩn công nghiệp và thương mại quốc gia phù hợp cho sự phát triển TMĐT.
- Triển khai đan xen các khâu chuẩn bị ứng dụng, tùng bước hoàn thiện các hạ tầng cơ sở cho TMĐT, đồng thời tiến hành các hoạt động thử nghiệm ứng dụng, đẩy mạnh các hoạt động nâng cao nhận thức, kỹ năng cho các DN và các thành phần kinh tế về TMĐT.
- Tích cực tham gia hợp tác quốc tế để tranh thủ sự trợ giúp về kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực và nguồn kinh phí cho phát triển TMĐT.
Trên cơ sở quan điểm định hướng chung của Chính phủ, mỗi ngành kinh tế, mỗi DN, mỗi tổ chức và cá nhân cần phải coi việc tham gia ứng dụng TMĐT là biện pháp quan trọng để phát triển các hình thức trao đổi có tính chất thương mại trong giai đoạn phát triển của xã hội thông tin như hiện nay.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Phát Triển Thương Mại Điện Tử Ở Việt Nam
- Mức Độ Sử Dụng Máy Tính Trong Doanh Nghiệp Việt Nam
- Tính Tất Yếu Phải Phát Triển Thương Mại Điện Tử Ở Việt Nam
- Triển vọng phát triển thương mại điện tử ở các nước đang phát triển và một số giải pháp đối với Việt Nam - 12
- Triển vọng phát triển thương mại điện tử ở các nước đang phát triển và một số giải pháp đối với Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
III. Một số giải pháp phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
1. Giải pháp vĩ mô
1.1. Phát triển Chính phủ điện tử
Mô hình CPĐT là một trong những điểm trọng tâm trong quá trình xã hội hóa thông tin, phát triển dân chủ và củng cố bộ máy chính quyền cấp cơ sở. Hiện
nay mô hình này được áp dụng rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới và mang lại nhiều lợi ích thiết thực. Tại nước ta, mô hình CPĐT đang được từng bước triển khai nhằm cải thiện phương thức quản lý hành chính, giúp các DN và người dân tiếp cận được với các chính sách, cơ chế của Đảng và Nhà nước một cách nhanh nhất.
Để phát triển CPĐT, Nhà nước phải có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cũng như khả năng sử dụng CNTT cho cán bộ và người dân, cần nhớ rằng, xây dựng CPĐT là một quá trình liên tục và lâu dài bởi chừng nào còn xã hội thì nền hành chính còn cần tiến hóa và hoàn thiện. Cơ quan nhà nước ở đây không chỉ bao gồm các cơ quan thuộc khối hành pháp (các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân các cấp) mà còn bao gồm cả các cơ quan thuộc khối lập pháp (Quốc hội), tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát) hay các cơ quan Đảng. Nghĩa là, tất cả các cấp đều phải triển khai CPĐT, cấp nào gần dân nhiều nhất thì càng phải triển khai sớm.
Về mặt quản lý nhà nước, Chính phủ nên xây dựng kế hoạch thực hiện gồm những hướng dẫn triển khai thực hiện một cách hệ thống cho các Bộ, ngành, tỉnh, thành phố, cần có chính sách khuyến khích sử dụng Internet, đặc biệt các giao dịch CPĐT cần triển khai từng phần, thu hút xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin, chú trọng đến công tác đào tạo đội ngũ quản lý thiết kế kỹ thuật có trình độ. Nhà nước cần đi tiên trong trong hoạt động thúc đẩy TMĐT thông qua việc ứng dụng các nguyên tắc của TMĐT vào việc quản lý bộ máy Chính phủ. Kinh nghiêm của các quốc gia công nghiệp mới như Singapore, Hàn Quốc cho thấy Chính phủ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xúc tiến TMĐT bằng việc trực tiếp tham gia vào lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, các vấn đề bảo mật thông tin, tính hợp pháp của thông tin và văn bản cũng như sử dụng phông chữ tiếng Việt thống nhất, quy định rõ quyền và trách nhiệm của các DN, cá nhân đối với việc khai thác thông tin, v.v… cũng cần được tính toán kỹ để mô hình CPĐT thực sự là người bạn của DN và người dân.
1.2. Tăng cường khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp trong thương mại điện tử
+ Cần có chính sách ưu đãi về tài chính, thuế cho các DN tham gia TMĐT:
Hiện nay ở VN, việc thu thuế từ những nhà cung cấp nhỏ hay người tiêu dùng gặp rất nhiêu khó khăn. Việc ban hành luật thuế trong TMĐT phải tùy thuộc
vào từng giai đoạn phát triển của TMĐT. Trước mắt, Nhà nước có thể ban hanh luật thuế hướng vào các nhà cung cấp dịch vụ lớn. Tuy nhiên, các cơ quan thuế phải tạo điều kiện thuận lợi nhất để các nhà cung cấp dịch vụ trực tiếp qua Internet có thể chấp hành luật thuế. Thủ tục đăng ký, kê khai thuế phải đơn giản và ít tốn kém. Có thể giảm hoặc miễn 50% thuế VAT đối với các giao dịch TMĐT.
+ Hỗ trợ mạnh mẽ các DN ứng dụng TMĐT:
Chính phủ cần có những chính sách hỗ trợ DN trong từng giai đoạn như là một biện pháp hỗ trợ xúc tiến thương mại đối với DN VN hiện nay. Đặc biệt, Nhà nước cần tham gia vào TMĐT không chỉ với tư cách quản lý, định hướng vĩ mô mà cần tham gia nhiều hơn nữa vào TMĐT với tư cách nhà tư vấn. Nhiều DN tỏ ra lo lắng và chậm triển khai thực hiện TMĐT không phải vì họ thiếu thiết bị, công cụ, không đủ chi phí, hay vì đường truyền thông tin qua mạng còn chậm, v.v… mà chính vì họ thiếu tư vấn. Do chưa quen giao dịch trên mạng, lại thiếu tư vấn nên nhiều DN chưa hiểu được nội dung, đặc điểm và các điều kiện cần thiết để thực hiện phương thức kinh doanh mới này, từ đó dẫn đến tâm lý e ngại và chưa thật sự tin vào hiệu quả mà TMĐT đem lại. Xuất phát từ thực tế và kinh nghiệm của nhiều nước đã triển khai thực hiện TMĐT, thì muốn phát triển TMĐT cần phải có một bộ phận chuyên trách ở tầm quốc gia thực hiện nhiệm vụ này từ cấp Trung ương đến địa phương. Bộ phận này sẽ là nơi chịu trách nhiệm tư vấn nhằm nâng cao nhận thức và năng lực cho DN, giúp các DN xác định loại hình hoạt động phù hợp cho từng ngành hàng, xây dựng website sân chơi chung cho các DN; hỗ trợ giải đáp các thắc mắc của các đối tượng tham gia sử dụng TMĐT, v.v…; hướng dẫn các văn bản pháp luật, đồng thời là nơi tập trung cơ sở dữ liệu thương mại giúp DN có thể tiếp thị và tìm kiếm thị trường trực tiếp trên mạng và chủ động tổ chức thực hiện từng bước dự án phát triển TMĐT. Trên thực tế, Bộ Công Thương đã thành lập Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin nhưng dường như các DN còn ít biết đến vai trò và chức năng hỗ trợ của Cục đối với sự phát triển của mình.
Bên cạnh đó, do hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau đều có những đặc điểm riêng, để nâng cao chất lượng của hoạt động hỗ trợ DN, trong thời gian tới Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin cần phối hợp
chặt chẽ hơn với các Hiệp hội và cơ quan quản lý nhà nước về TMĐT tại địa phương (Sở Công Thương) để xây dựng và triển khai các hoạt động hỗ trợ cho DN hoạt động trong từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể.
1.3. Nâng cao nhận thức của toàn dân về thương mại điện tử
+ Cần đưa ra cách hiểu thống nhất về TMĐT:
Hiện nay, Internet và website đã trở nên khá quen thuộc với nhiều người, nhiều DN. Song cùng với sự phổ biến đó là sự nhầm lẫn do chưa hiểu hết, chưa nhận thức hết về TMĐT hoặc có những cách hiểu không giống nhau về TMĐT. Ngay cả trên thế giới cũng chưa thống nhất được một cách hiểu về TMĐT mà vẫn tồn tại những khái niệm theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Do đó, VN cần phải đưa ra được định nghĩa chính xác, phù hợp với điều kiện của VN. Sẽ thuận lợi hơn nếu hiểu TMĐT theo nghĩa rộng, rằng việc áp dụng điện thoại, telex, fax, v.v… đều là các thiết bị điện tử và đó chính là bước đầu của TMĐT để tạo sự tự tin cho DN khi bước vào TMĐT.
+ Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến và đào tạo chính quy TMĐT:
Xét về cách sống và làm việc, đa số dân chúng Việt Nam vẫn còn quen giao dịch trên văn bản giấy tờ, mua hàng nhất thiết phải trải qua công đoạn nhìn, sờ, nếm, thử, v.v… đều là các thói quen khác biệt một cách căn bản với khái niệm TMĐT. Do đó, để triển khai được TMĐT tại Việt Nam, cần tăng cường giáo dục, thông tin, tuyên truyền về lợi ích to lớn khi họ tham gia vào hoạt động này. Mặt khác, Chính phủ cần cho phép và khuyến khích hỗ trợ nhiều hơn trong việc đưa các báo chí, trung tâm thông tin, tra cứu trên mạng, v.v… để các doanh nghiệp và cá nhân có thể dùng Internet để tra cứu thông tin, tìm bạn hàng, quảng cáo thông tin về mình, v.v…
Từ năm 2006 đến nay, hoạt động tuyên truyền phổ biến về TMĐT đã được các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan thông tin đại chúng và nhiều DN quan tâm thúc đẩy nên đã có sự phát triển khá mạnh mẽ. Đến nay, nhận thức của DN và người tiêu dùng về lợi ích của TMĐT đã có chuyển biến rõ rệt. Trong giai đoạn 2009 - 2010, hoạt động tuyên truyền phổ biến cần tập trung vào một số vấn đề đang được nhận định là các trở ngại lớn đối với việc tham gia TMĐT của DN và người
tiêu dùng như vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân, thúc đẩy hình thành thói quen mua sắm trên mạng, sử dụng thẻ thanh toán, v.v… VN cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến về tầm quan trọng của vấn để bảo vệ thông tin cá nhân đến các tổ chức, DN và nhân dân. Đặc biệt, cần tăng cường triển khai hoạt động cấp chứng nhận website TMĐT uy tín.
1.4. Nâng cao chất lượng hạ tầng cơ sở nhân lực cho thương mại điện tử
Do yêu cầu phát triển TMĐT đòi hỏi phải có một lực lượng chuyên gia CNTT đủ mạnh, vì vậy, quan điểm về giải pháp cho cơ sở hạ tầng nhân lực phục vụ cho TMĐT cần được đặt trong quan điểm chung trong quy hoạch đào tạo nhân lực CNTT của quốc gia.
Trong thời gian tới cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cơ quan quản lý nhà nước liên quan là Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Công Thương trong việc dự báo nhu cầu nguồn nhân lực cũng như đánh giá lại chất lượng đào tạo hiện nay để có những biện pháp thúc đẩy hoạt động đào tạo TMĐT đi vào chiều sâu, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đối với nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao. Các trường ĐH, CĐ và cộng đồng DN cần chủ động xây dựng mối quan hệ hữu cơ liên quan đến cung cầu nhân lực về TMĐT. Đồng thời, Nhà nước cũng cần hỗ trợ cho các đề tài nghiên cứu về CNTT nhằm khuyến khách mọi người tham gia nghiên cứu chuyên sầu về lĩnh vực TMĐT.
Hình thành các mạng lưới đào tạo nhân lực CNTT ở các vùng kinh tế xã hội trọng điểm (Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM). Mạng lưới đào tạo bao gồm các trường đại học công nghệ, việc nghiên cứu, các trung tâm đào tạo nhân lực thông tin của các DN trong nước, của các loại hình kinh tế và các DN có vốn đầu từ nước ngoài. Thực hiện đào tạo song ngữ (Anh – Việt) trong một số khoa CNTT ở các trường đại học trọng điểm nhằm giúp những người tốt nghiệp có năng lực ngoại ngữ phục vụ tốt công việc.
Có thể thấy lực lượng các chuyên gia CNTT và đông đảo người dùng Internet tham gia TMĐT trong các cơ quan nhà nước, DN và dân chúng đóng vai trò chiến lược trong lộ trình tiếp cận và ứng cụng TMĐT của quốc gia. Do đó, để đáp ứng yêu cầu phát triển TMĐT về cơ sở hạ tầng nhân lực, cần chú trọng phát
triển nhanh lực lượng cán bộ chuyên sâu, đặc biệt là chuyên gia phần mềm đáp ứng kịp thời, thường xuyên nhu cầu thực tiễn. Bên cạnh đó, cần đặc biệt quan tâm tới việc tăng cường nâng cao năng lực nhận thức về TMĐT của các chủ thể tham gia.
Công tác tuyên truyền phổ biến thông tin về TMĐT, kỹ thuật và kỹ năng TMĐT cần được hỗ trợ bởi các chính sách giá cả hợp lý nhằm tạo một tầng lớp công chúng đông đảo cho TMĐT.
Đa dạng hóa và xã hội hóa các hình thức đào tạo về TMĐT, từ các chương trình đào tạo dài hạn ở các cấp học cho đến các lớp bồi dưỡng ngắn hạn cho các đối tượng trong xã hội là một hướng đi cần được khuyến khích. Chính phủ và DN cũng có thể có các chương trình học bổng gửi cán bộ nhân viên ra nước ngoài đào tạo về CNTT, Internet và TMĐT, hỗ trợ cho các đề tài nghiên cứu về CNTT nhằm khuyến khích mọi người tham gia nghiên cứu về TMĐT, v.v…
Ngoài ra, các hội thảo chuyên đề về TMĐT, công tác nghiên cứu và triển khai TMĐT ở các tổ chức kinh tế xã hội, các nỗ lực hợp tác quốc tế về TMĐT cũng cần được tiếp tục mở rộng hơn.
1.5. Hoàn thiện hạ tầng cơ sở pháp lý về thương mại điện tử
+ Đẩy mạnh triển khai các văn bản pháp luật về TMĐT:
Cho đến hết năm 2009, các nghị định hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử và phần lớn các nghị định hướng dẫn Luật Công nghệ thông tin đã được ban hành. Tuy nhiên, TMĐT là lĩnh vực còn mới mẻ lại dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến, để các văn bản quy phạm pháp luật nói trên thực sự đi vào cuộc sống, tạo ra môi trường quản lý và hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động các DN, các cơ quan quản lý nhà nước cần nỗ lực hơn nữa trong việc triển khai thực hiện các văn bản pháp luật đã ban hành. Trong triển khai cần chú trọng tới hoạt động hướng dẫn, phổ biến nội dung của các văn bản pháp luật để các DN hiểu và thực hiện đúng các quy định đã ban hành, xem đây là một khâu then chốt giúp triển khai và hoàn thiện môi trường pháp lý về TMĐT.
+ Nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp về TMĐT:
Từ năm 2008 việc giao kết hợp đồng trực tuyến cũng như các giao dịch trực tuyến khác như thanh toán điện tử và mua bán các sản phẩm số hóa tăng lên nhanh
chóng cả về số lượng lẫn giá trị. Tuy nhiên, cùng với đó là sự gia tăng của các vụ tranh chấp thương mại liên quan tới mua bán trực tuyến. Đồng thời, những tranh chấp về tài sản trí tuệ liên quan tới môi trường mạng như tên miền và bản quyền tác giả cũng gia tăng với độ phức tạp cao. Trong khi đó, năng lực giải quyết tranh chấp về TMĐT của VN còn thấp. Các tòa án kinh tế, trọng tài kinh tế, các tổ chức thanh tra viễn thông và thương mại, các tổ chức thực thi cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ người tiêu dùng, các cơ quan điều tra, v.v... chưa được đào tạo tốt về lĩnh vực này và hầu như chưa có kinh nghiệm trong việc giải quyết tranh chấp. Do đó, một nhiệm vụ cấp bách của VN là phải nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp về TMĐT. Nhà nước cần ban hành một cơ chế giải quyết tranh chấp đối với các giao dịch trên mạng sao cho phù hợp với các đặc thù của VN, trong đó quy định về những vấn đề cơ bản như: Các cơ quan giải quyết tranh chấp trong các giao dịch trên mạng; Nguyên tắc giải quyết tranh chấp trong các giao dịch trên mạng; Quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp trong các giao dịch trên mạng; v.v…
1.6. Tăng cường hợp tác quốc tế về thương mại điện tử
Từ năm 2006 đến nay, VN đã chủ động từng bước tham gia vào các hoạt động hợp tác về TMĐT trong các diễn đàn đa phương như APEC, UNCITRAL, UN/CEFACT, UNCTAD, v.v… và hợp tác song phương với các quốc gia, vùng lãnh thổ như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, v.v… Trong giai đoạn tới VN cần tăng cường hơn nữa việc tham gia vào hoạt động của các tổ chức hợp tác quốc tế đa phương, trong đó tập trung vào APEC, UNCITRAL, WTO để hỗ trợ việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về TMĐT, thực hiện tốt, có hiệu quả các cam kết quốc tế về TMĐT mà VN tham gia. Việc xây dựng, ban hành, phổ biến các tiêu chuẩn, quy chuẩn về trao đổi dữ liệu điện tử trong nước hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển TMĐT nước ta thời gian tới. Do đó VN cần tham gia tích cực hơn nữa vào hoạt động của Tổ chức hỗ trợ thương mại và TMĐT của Liên Hợp quốc (UN/CEFACT). Hợp tác song phương với các quốc gia tiên tiến về TMĐT và có quan hệ thương mại đầu tư lớn với VN như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v… cũng cần được đẩy mạnh hơn nữa nhằm tìm kiếm các giải pháp hỗ trợ DN giảm chi phí giao dịch hành chính, nâng cao năng lực cạnh
tranh trong bối cảnh kinh tế thế giới đang suy giảm hiện nay. Bên cạnh đó, VN cũng cần tăng cường thực hiện các cam kết về TMĐT trong các hiệp định khu vực mậu dịch tự do, hỗ trợ các DN, hiệp hội trong việc tham gia hoạt động của tổ chức quốc tế về TMĐT như Liên minh các Tổ chức cấp chứng nhận website TMĐT uy tín Châu Á - Thái Bình Dương, Liên minh thương mại điện tử Châu Á - Thái Bình Dương, v.v… và từng bước nâng cao uy tín của doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động thương mại điện tử.
1.7. Tiêu chuẩn hóa công nghiệp và thương mại
Các tiêu chuẩn, quy chuẩn về TMĐT có tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển TMĐT. Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2006 – 2010 đã nhấn mạnh tới việc phát triển các công nghệ hỗ trợ TMĐT trên cơ sở khuyến khích chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, ban hành và phổ cập các tiêu chuẩn chung sử dụng trong TMĐT, đặc biệt là chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử (EDI và ebXML). Trong hai năm 2006 và 2007, Bộ Khoa học và Công nghệ và một số bộ ngành và DN đã nghiên cứu, ban hành một số tiêu chuẩn và ứng dụng EDI và ebXML như Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 29/6/2006 về TMĐT quy định nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc ban hành các tiêu chuẩn về TMĐT, Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, v.v... Tuy nhiên, việc ban hành và phổ biến các tiêu chuẩn và quy chuẩn quốc gia về TMĐT vẫn chưa tương xứng với xu hướng phát triển của loại hình giao dịch DN với DN (B2B) quy mô lớn. Vì thế, các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là Bộ Công Thương và Bộ Khoa học và Công nghệ cần đẩy mạnh hoạt động xây dựng, ban hành và phổ biến các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về TMĐT.
1.8. Bảo mật an ninh thông tin
Hiện nay bảo vệ dữ liệu đang là một trong những vấn đề được quan tâm đặc biệt của TMĐT. Ngày càng có nhiều quốc gia ban hành các luật bảo vệ dữ liệu nhằm ngăn cản không cho thông tin được truyền gửi tới những nước không có phương tiện bảo vệ thông tin. Hậu quả là tại những nước không có các cơ chế bảo vệ thông tin thích đáng, TMĐT sẽ khó có thể phát triển.