Như vậy, đối với trường hợp này, Hội đồng xét xử đã có sai sót là không viện dẫn Điều 47 nhưng vẫn quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, sai sót trong định tội danh và quyết định hình phạt
Qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tại Quận 9, Thành phố Hồ chí Minh có thể khái quát một số nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, thiếu sót trong định tội danh cũng như trong quyết định hình phạt như sau:
- Nhóm nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, đây là loại tội phạm rất khó phát hiện, có độ ẩn rất cao. Bởi vì để phát hiện ra được vụ án hình sự thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của bị hại phải phát hiện ra con em họ bị xâm hại tình dục tố cáo với cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, trong thực tiễn người bị hại hoặc người thân thiết của người bị hại thường có thái độ bất hợp tác hoặc người phạm tội dùng nhiều thủ đoạn để xóa dấu vết che dấu hành vi phạm tội. Do đó, việc thu thập chứng cứ gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến việc xác định tội danh cũng như quyết định hình phạt.
Thứ hai, do bị hại cũng như gia đình bị hại tố cáo hành vi phạm tội chậm nên khó khăn thu thập các chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội như tinh dịch, lông tóc, rách màng trinh…
Thứ ba, do những hạn chế, bất cập của những quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội phạm và hình phạt nói chung, về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi nói riêng như: một số quy định của BLHS cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành hành cũng còn những điểm chưa rò ràng, có những quy định chưa
được hướng dẫn, giải thích cụ thể dẫn đến việc định tội danh, quyết định hình phạt gặp nhiều khó khăn.
Thứ tư, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho hoạt động định tội danh trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử còn hạn chế, nhất là phương tiện phục vụ cho công tác giám định pháp y về tình dục còn nhiều bất cập. Thêm vào đó, chế độ đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ có thẩm quyền tiến hành tố tụng còn hạn chế, chưa huyến khích họ trong công tác nghiệp vụ.
- Nhóm nguyên nhân chủ quan:
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Khởi Tố, Điều Tra, Truy Tố Tội Giao Cấu Hoặc Thực Hiện Hành Vi Quan Hệ Tình Dục Khác Với Người Từ Đủ 13 Tuổi Đến Dưới 16 Tuổi Tại
- Thực Trạng Và Kết Quả Đạt Được Trong Định Tội Danh
- Bảng Tỷ Lệ Các Bị Cáo Bị Xét Xử Áp Dụng Hình Phạt Qui Định Tại Khoản 1 Và Khoản 2 Của Điều 115 Blhs Năm 1999, Điều 145 Blhs
- Yêu Cầu Thực Hiện Các Cam Kết Quốc Tế Về Quyền Trẻ Em.
- Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi từ thực tiễn quận 9, thành phố Hồ Chí Minh - 10
- Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi từ thực tiễn quận 9, thành phố Hồ Chí Minh - 11
Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.
Thứ nhất: Trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ cũng như ý thức trách nhiệm của một số người tiến hành tố tụng còn hạn chế, yếu kém.
Việc áp dụng pháp luật có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào năng lực chuyên môn, trình độ của người áp dụng pháp luật. Thực tế cho thấy, một số ít Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán nhất là Hội thẩm chưa tích cực nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. Ngoài ra, một số khác chưa tích cực nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, không cập nhật các văn bản hướng dẫn, giải thích pháp luật kịp thời nên khi áp dụng các quy phạm pháp luật để định tội và quyết định hình phạt đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi còn mang tính chủ quan, chưa chính xác.
Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ đối với những người áp dụng pháp luật chưa tương xứng nên chưa kích thích tinh thần chủ động, tích cực nên nhiều vụ việc thời gian bị kéo dài.
Thứ hai: Công tác quản lý, điều hành, chỉ đạo nghiệp vụ của cơ quan tiến hành tố tụng cấp trên đối với cơ quan tiến hành tố tụng cấp dưới có lúc còn chưa kịp thời, chưa sâu sát và cụ thể. Một số trường hợp, sau khi phân công nhiệm vụ, lãnh đạo không quan tâm đôn đốc, giám sát tiến độ thực hiện công việc của người được giao, không nắm bắt được những khó khăn vướng
mắc để kịp thời tháo gỡ trong quá trình trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến những sai sót trong việc áp dụng các qui định pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt.
Kết luận chương 2
Trong chương 2 của luận văn, tác giả tập trung khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2016 đến năm 2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong những năm qua hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi vừa có mặt tích cực vừa có mặt hạn chế nhất định. Nhìn chung, mặt tích cực là cơ bản nên công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này trên địa bàn quận đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, những kết quả đạt được thì vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót trong việc định tội danh và quyết định hình phạt do cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Đánh giá đúng, đầy đủ những khó khăn, vướng mắc cũng như những hạn chế thiếu sót trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt từ thực tiễn trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh mới có cơ sở thực tế để đưa ra một số yêu cầu và giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trong chương 3.
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
3.1. Yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng qui định của pháp luật hình sự về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
3.1.1. Yêu cầu bảo vệ quyền trẻ em
Ở nước ta, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong đó có quyền trẻ em là mục tiêu nhất quán xuyên suốt của Đảng và Nhà nước. Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 có quy định: “Các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng và bảo vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và pháp luật” [30, tr.14] và tại Điều 37 quy định rò: “1. Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” [30, tr.22]
Để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, nhiều văn bản pháp luật đã quy định về quyền trẻ em như: Luật trẻ em năm 2016 có quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm hại tình dục” và BLHS, BLTTHS năm 2015 cũng đã có nhiều quy định liên quan đến việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền bất khả xâm phạm tình dục của trẻ em.
Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền trẻ em, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi cần phải phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, nhưng cũng không được làm oan người vô tội. Để làm được
điều đó cần xây dựng được đội ngũ cán bộ tư pháp có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có tinh thần trách và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, cần xây dựng được tổ chức với cơ chế giám sát chặt chẽ từ phía Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân.
Như vậy, bảo vệ và đảm bảo quyền trẻ em là một trong những yêu cầu hàng đầu đối với hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói chung, định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi nói riêng. Vì thế, khi áp dụng các quy định của pháp luật hình sự để giải quyết vụ án về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, chủ thể có thẩm quyền luôn luôn phải quán triệt yêu cầu này.
3.1.2. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
Nhìn chung, tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh ngày càng tăng về số vụ và số người phạm tội, diễn biến phức tạp. Trong vòng 5 năm (từ năm 2016 đến năm 2020) đã có tổng số 120 vụ với 135 bị cáo phạm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người; trong đó có 32 vụ với 33 bị cáo phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Tình hình này đặt ra yêu cầu phải tăng cường đấu tranh phòng, chống tội phạm nhất là các tội xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng trong đó có tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự để đấu tranh chống tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đó có TAND cần phải tăng cường xử lý giải quyết các vụ án để đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật.
Việc áp dụng pháp luật hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả tạo ra một môi trường xã hội ổn định, kinh tế - xã hội phát triển, bảo vệ quyền con người (trong đó có quyền của trẻ em). Do vậy, khi áp dụng
pháp luật hình sự nói chung, định tội danh và áp dụng hình phạt đối với bị cáo phạm các tội xâm tình dục trẻ em nói riêng trong đó có tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi phải quán triệt yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn nhất định.
3.1.3. Yêu cầu cải cách tư pháp
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị đề ra mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp là: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [11, tr.48]. Để đạt được mục tiêu này, trong chiến lược cải cách tư pháp đã đề ra phương hướng và nhiệm vụ cải cách tư pháp, trong đó nhấn mạnh: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm, hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Đổi mới phiên tòa xét xử, xác định rò vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
TAND là một thiết chế trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Có chức năng xét xử để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người và sự công bằng xã hội, góp phần đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Do vậy, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của TAND, nhất là định tội danh và quyết định hình phạt có chất lượng, hiệu quả sẽ khắc phục được những hạn chế, sai sót trong việc thực hiện chức năng xét xử nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả. Chính vì vậy, TAND cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng khác luôn luôn phải quán triệt những yêu cầu về cải cách tư pháp để đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự trong thực tiễn.
3.1.4. Yêu cầu củng cố, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được ghi nhận tại khoản 1 Điều 8 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật…”[30, tr.11]
Trên cơ sở đó, Điều 2 Bộ luật Hình sự quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.”[31, tr. 8]. Như vậy, chỉ khi nào hành vi của con người cụ thể đã được thực hiện, hành vi ấy được Bộ luật Hình sự quy định thì họ mới phải chịu trách nhiệm Hình sự. Nguyên tắc này bảo đảm tính chặt chẽ hệ thống trong cả nước, chống việc truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, làm oan người vô tội do động cơ cá nhân. Ngoài ra, điều luật nêu rò hành vi phạm tội phải là hành vi do Bộ luật Hình sự quy định. Do đó, Nhà nước, nghiêm cấm việc lạm dụng pháp luật, tùy tiện truy cứu trách nhiệm hình sự người vô tội. Bên cạnh đó, Nhà nước phải kịp thời bổ sung, sửa đổi Bộ luật Hình sự, để Bộ luật đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới.
Xuất phát từ quy định trên, yêu cầu củng cố, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt nói chung cũng như định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi nói riêng phải tuân thủ đúng nội dung (BLHS và văn bản hướng dẫn) và pháp luật về hình thức (BLTTHS và văn bản hướng dẫn). Mọi trường