Tổ chức kiểm toán nội bộ tại các công ty tài chính Việt Nam - 18


Như đã đề cập ở trên, bộ máy KT, KSNB chuyên trách là một bộ phận cấu thành của hệ thống KSNB trong các TCTD, có nhiệm vụ giúp TGĐ thực hiện việc tự kiểm tra để tổng hợp, rà soát, đánh giá hoạt động của đơn vị. Trong khi đó, chức năng đánh giá tính hiệu lực và hiệu quả của HTKSNB là chức năng đánh giá độc lập của KTNB.

Với các công ty vừa có bộ phận KTNB và bộ phận KT, KSNB chuyên trách, có tình trạng bộ phận KTNB kiểm tra lại các nội dung mà bộ phận KT, KSNB đã thực hiện kiểm tra, dẫn tới sự chồng chéo trong công việc, gây lãng phí về thời gian, nhân lực.

Cũng xuất phát từ sự chưa phân biệt rạch ròi giữa hai khái niệm kiểm tra và kiểm toán, nên nhiều công ty chỉ chú trọng đến KT, KSNB, còn KTNB một số nơi còn bị bỏ ngỏ hoặc chưa thực hiện thường xuyên, toàn diện dẫn đến hiệu quả KTNB chưa cao. Thực tế cho thấy vẫn còn một phần ba số công ty chưa tổ chức bộ phận KTNB.

Tóm lại, mặc dù KTNB tại các CTTC đã đi vào hoạt động và đạt được một số kết quả, nhưng vẫn còn một số hạn chế nhất định. Thực trạng hoạt động của KTNB trong các CTTC cần phải được xem xét và đánh giá một cách khách quan để có hướng cải thiện và đổi mới. Phân tích nguyên nhân của các tồn tại trong hoạt động của KTNB tại các CTTC là cần thiết để làm cơ sở tìm kiếm giải pháp hoàn thiện tổ chức KTNB, giúp KTNB trở thành một công cụ hữu hiệu trong quản lý và giám sát hoạt động của các công ty.

2.3.2. Nguyên nhân của các hạn chế


2.3.2.1. Nguyên nhân khách quan


Những nguyên nhân khách quan có ảnh hưởng lớn tới KTNB trong các CTTC Việt Nam gồm:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 260 trang tài liệu này.

Thứ nhất: lịch sử non trẻ của hoạt động KTNB tại các CTTC


Tổ chức kiểm toán nội bộ tại các công ty tài chính Việt Nam - 18

Kiểm tra, kiểm soát nói chung và kiểm toán nói riêng là hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao. Hoạt động này đòi hỏi phải tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao nhận thức… Ở nước ta, những dấu hiệu ban đầu về hoạt động kiểm tra kiểm soát đã xuất hiện từ rất sớm, tuy nhiên, hoạt động kiểm toán chỉ mới xuất hiện từ đầu thập kỷ 90. Kinh nghiệm tổ chức kiểm toán ở nước ta còn quá ít nếu so với lịch sử phát triển hàng trăm năm của kiểm toán tại các quốc gia như Mỹ, Anh, Pháp… Vì vậy, việc trong quá trình


phát triển của KTNB tại các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các CTTC nói riêng còn chưa phù hợp, chưa đúng với bản chất và chức năng là điều dễ hiểu. Bên cạnh đó, thói quen kiểm tra kiểm soát theo công nghệ kiểm tra kế toán còn tồn tại, đang được áp dụng đòi hỏi sự thay đổi phải có lộ trình từng bước. Lịch sử phát triển của kiểm toán trên thế giới cũng ghi nhận sự phát triển của KTNB theo sau sự phát triển của KTĐL và KTNN, sự phát triển của KTNB ban đầu cũng có xuất phát điểm trong lĩnh vực tài chính. Giai đoạn sau này, các hoạt động KTNB hiện đại mới có sự chuyển hướng sang các lĩnh vực khác như hiệu quả, hiệu năng. Vì vậy, sự giới hạn trong phạm vi, nội dung trong thực hiện KTNB tại các CTTC có thể lý giải một phần do nguyên nhân này.

Bên cạnh đó, tuổi đời của các CTTC Việt Nam khá non trẻ. Trong số 12 CTTC Việt Nam hiện đang hoạt động, có tới 50% các công ty mới được cấp giấy phép và bắt đầu hoạt động từ năm 2007, tức là mới có dưới 3 năm hoạt động, tính tới ngày 31/12/2009. Còn về thời gian hoạt động của bộ phận KTNB, thì tại tất cả các công ty có tổ chức KTNB, bộ phận KTNB cũng mới ra đời từ năm 2006/2007, sau khi NHNN ban hành Qui chế KTNB cho các TCTD. Lịch sử non trẻ, cộng với qui mô còn nhỏ của một số CTTC là một trong những lý do khiến cho một số công ty chưa tổ chức KTNB, hoặc hoạt động KTNB chưa đáp ứng yêu cầu.

Thứ hai: hệ thống văn bản pháp lý còn hạn chế, chưa đầy đủ


Đối với các TCTD, hệ thống KT, KSNB và KTNB của các TCTD Việt Nam được xây dựng và vận hành dựa trên cơ sở Luật các TCTD và Qui chế về KTNB của các TCTD ban hành kèm theo Quyết định Số 37/2006/QĐ-NHNN ngày 1/8/2006 của Thống đốc NHNN. Qui chế này đã trao cho bộ phận KTNB tại các TCTD địa vị pháp lý cao hơn (KTNB trực thuộc và chịu sự chỉ đạo của BKS). Qui chế này cũng qui định những nội dung về KTNB như tổ chức và hoạt động của bộ máy KTNB, quyền hạn, trách nhiệm, những yêu cầu về chính sách, qui trình KTNB, chế độ báo cáo và lưu trữ hồ sơ, tài liệu kiểm toán… làm nền tảng cho KTNB tại các TCTD. Văn bản pháp luật này đã kịp thời đưa ra các quy định có liên quan đến KTNB để hoà nhập với thế giới, phù hợp với các thông lệ quốc tế về KTNB. Tuy nhiên Qui chế này chưa thể hiện được tính hệ thống và tính chuyên nghiệp cao trong hoạt động KTNB. Ngoài ra, Chính phủ cũng chưa ban hành các văn bản có tính pháp lý cao, ví dụ như một nghị định về KTNB, trong đó


có các qui định cụ thể về hoạt động, phương pháp thực hiện của KTNB. Song song với quá trình hoàn thiện các qui trình nghiệp vụ và Luật các TCTD, qui định về KTNB còn phải hoàn thiện. Ngoài ra, hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và nhất quán còn nhiều bất cập so với yêu cầu hội nhập quốc tế về ngân hàng, tín dụng.

Bên cạnh đó, hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam dù đã được ban hành tương đối đầy đủ, nhưng vẫn chưa có hệ thống chuẩn mực riêng cho KTNB. Mặc dù chúng ta vẫn đang áp dụng theo các chuẩn mực KTNB do viện IIA công bố, nhưng việc tự xây dựng một hệ thống chuẩn mực KTNB cho Việt Nam cũng là một yêu cầu cấp thiết nhằm tạo dựng một hành lang hoạt động hoàn chỉnh, có tính chuyên nghiệp cao của KTNB.

Thứ ba: vai trò hạn chế của BKS tại các doanh nghiệp


Theo Qui chế KTNB dành cho các TCTD, KTNB được tổ chức theo ngành dọc trực thuộc BKS. Với các chức năng được quy định trong Luật Doanh nghiệp và điều lệ của công ty, BKS thực hiện việc giám sát HĐQT, BGĐ (giám đốc hoặc TGĐ) trong việc quản lý và điều hành công ty, kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập BCTC cũng như thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, BCTC hàng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT. Qui định KTNB trực thuộc BKS là một bước nhằm tăng vị thế của KTNB.

Tuy nhiên, trong thực tế, vai trò của BKS tại các doanh nghiệp Việt Nam còn tương đối mờ nhạt. Vai trò của BKS chưa được các văn bản luật đề cao. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, văn bản do BKS ban hành về việc kiểm tra, giám sát chỉ có ý nghĩa cảnh báo. Ngay cả khi phát hiện hành vi vi phạm nghĩa vụ quản lý công ty của HĐQT hoặc BGĐ, BKS chỉ có quyền yêu cầu các cá nhân liên quan chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả. Tại Việt Nam, các cơ quan nhà nước, hoặc bên thứ ba chủ yếu quan tâm đến người đại diện theo pháp luật của công ty chứ ít quan tâm tới các thành viên hoặc trưởng BKS của công ty.

Bên cạnh đó, các quy định hiện hành về chế độ kế toán, các báo cáo hàng năm của công ty cổ phần phải nộp cho cơ quan thuế chỉ gồm bảng cân đối kế toán; báo cáo kết


quả hoạt động kinh doanh; báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh BCTC. Trong quy định về công bố thông tin của công ty đại chúng, nội dung công bố thông tin về BCTC năm cũng chỉ bao gồm các tài liệu trên. Như vậy, báo cáo của BKS không phải là tài liệu bắt buộc phải nộp cho cơ quan quản lý hoặc công bố thông tin theo quy định.

Do vậy, tại nhiều doanh nghiệp, BKS tuy được thành lập nhưng có ít quyền lực trong thực tế, vì vậy chưa thực hiện một cách hiệu quả vai trò và chức năng của mình. Là bộ phận chịu sự quản lý trực tiếp của BKS, bộ phận KTNB do đó cũng khó có thể phát huy được vai trò kiểm tra, đánh giá HTKSNB của doanh nghiệp.

Thứ tư: qui mô tương đối nhỏ của các CTTC


Một trong những nguyên nhân khiến cho bộ phận KTNB chưa được tổ chức tại một số CTTC hoặc đã được hình thành nhưng chưa hoàn thiện là do qui mô còn tương đối nhỏ của một số CTTC. Thực tế cho thấy mức độ phát triển, qui mô của bộ phận KTNB khá tương xứng với qui mô hoạt động của các CTTC. Trong số các CTTC, Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí là đơn vị lớn nhất về qui mô tài sản, nguồn vốn, số lượng chi nhánh, số lượng cán bộ nhân viên, và là công ty duy nhất đã niêm yết trên thị trường chứng khoán. Do vậy, đây cũng là đơn vị có bộ phận KTNB phát triển nhất trong các công ty. Trong số 12 CTTC, chỉ có hai công ty có trên 300 cán bộ nhân viên, còn lại đều có dưới 150 cán bộ nhân viên. Các công ty chưa tổ chức KTNB đều có dưới 50 nhân viên và chưa có chi nhánh, 3 trong số 4 công ty mới được thành lập trong năm 2008, 2009.

Thứ năm: nhận thức về kiểm toán nói chung và KTNB nói riêng chưa hoàn toàn đúng đắn

Nhận thức về chức năng và nhiệm vụ cụ thể của KTNB chưa được quan niệm thống nhất, đặc biệt là trong kiểm toán hiệu quả hoạt động và hiệu năng của quản lý. Ngay trong lĩnh vực kiểm toán mang tính truyền thống như kiểm toán tuân thủ và kiểm toán thông tin cũng chưa thật nhất quán về nội dung cụ thể cần kiểm toán. Kết quả khảo sát cho thấy, KTNB chủ yếu kiểm toán tuân thủ kết hợp với kiểm toán BCTC. Kiểm toán tuân thủ cũng chỉ dừng ở việc đánh giá các qui định, qui trình được áp dụng trên thực tế mà chưa thực sự trợ giúp cho nhà quản lý trong xây dựng hay cải thiện qui trình này…


Nhận thức này tạo ra môi trường không tốt làm cho hoạt động kiểm toán có thể bị đánh đồng với những hoạt động kiểm soát khác.

Tiếp đến là các nguyên nhân chủ quan. Từ kết quả khảo sát và phân tích về KTNB trong các CTTC có thể khái quát theo một số nguyên nhân cơ bản sau:

2.3.2.2. Nguyên nhân chủ quan


Thứ nhất: hoạt động KTNB thiếu chiến lược


Bản thân việc thực hiện KTNB mới chỉ dựa trên kinh nghiệm, gặp vấn đề gì thì xử lý, mang tính chất tình huống, ... làm cho các hoạt động kiểm toán mang tính bị động nhiều hơn là chủ động. KTNB tại các CTTC chỉ thực hiện hậu kiểm là chủ yếu đã ảnh hưởng đến tính khả dụng của KTNB trong quản lý. Tại các nước phát triển, xây dựng một chiến lược kiểm toán có vai trò quan trọng tới hiệu quả và chất lượng của KTNB. Chiến lược kiểm toán áp dụng cho một thời gian dài, liên quan tới nhiều khía cạnh khác nhau trong kiểm toán. Chiến lược kiểm toán phải được nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi áp dụng. Không có chiến lược, phát triển hoạt động kiểm toán kiểu dập khuôn đã ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động này tại các CTTC Việt Nam hiện nay.

Thứ hai: hạn chế về đội ngũ KTVNB


KTV là người thực hiện toàn bộ quá trình kiểm toán, do đó trình độ, khả năng và đạo đức của KTV sẽ quyết định chất lượng và hiệu quả của hoạt động kiểm toán. Chính vì vậy, trong tất cả các loại hình kiểm toán, các hiệp hội nghề nghiệp hoặc các cơ quan quản lí đều đưa ra những quy định rất rõ ràng về các tiêu chuẩn đối với KTV. Đối với KTNB, IIA yêu cầu KTV có tính độc lập khách quan, năng lực chuyên môn, sự thận trong nghề nghiệp và có sự củng cố nâng cao năng lực nhằm phát triển nghề nghiệp của mình. Năng lực của KTV đề cập đến sự hiểu biết, các kỹ năng cần thiết để thực hiện công việc. KTVNB phải hiểu về hoạt động mà mình kiểm toán, tinh thông về kế toán – kiểm toán, đồng thời phải có sự hiểu biết nhất định về rủi ro và các loại kiểm soát cơ bản đối với công nghệ thông tin, các kỹ thuật kiểm toán dựa trên sự trợ giúp của công nghệ thông tin. IIA cũng nhấn mạnh rằng bộ phận KTNB khi xét như một tổng thể cũng phải đảm bảo các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp và năng lực chuyên môn. Một KTV khó có thể thông thạo tất cả các lĩnh vực hoạt động của TCTD nhưng sự hiểu biết của toàn bộ bộ phận KTNB phải bao quát được tất cả các lĩnh vực đó.


Tuy nhiên, đội ngũ KTVNB của các CTTC chưa thực sự đáp ứng được các yêu cầu này.

Về trình độ của KTV


Qua kết quả khảo sát, có thể thấy, đội ngũ KTV của các CTTC đã đáp ứng được yêu cầu cơ bản nhất là phải tốt nghiệp đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán, hoặc quản trị kinh doanh.

Tuy nhiên, số lượng các cán bộ kiểm toán có kinh nghiệm kiểm toán và có chứng chỉ KTV do Bộ tài chính cấp chưa nhiều, chỉ chiếm 14% tổng số cán bộ kiểm toán. Các KTV này chủ yếu là được tuyển dụng từ các công ty KTĐL, và đã có từ 4 năm kinh nghiệm làm kiểm toán. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa rằng các KTV này đều đã có hiểu biết đầy đủ về hoạt động của các CTTC, với những rủi ro và đặc thù riêng của các tổ chức tài chính. Đối với các cán bộ kiểm toán khác, khoảng trên 60% là được tuyển dụng từ các bộ phận khác trong công ty, ví dụ kế toán, các phòng ban nghiệp vụ. Điều này dẫn đến tình trạng một số cán bộ chỉ nắm được một mảng hoạt động nhất định, chứ không có hiểu biết đầy đủ về hoạt động của công ty. Đối với các cán bộ được tuyển dụng từ bên ngoài, tuy đã được các cán bộ có kinh nghiệm hơn hướng dẫn lại, nhưng cũng khó có thể có hiểu biết sâu sắc về các nghiệp vụ. Đội ngũ này thực thi công việc theo kinh nghiệm là chính và chưa qua các huấn luyện về phương pháp nghiệp vụ kiểm toán, KTNB.

Kiến thức và kỹ năng về tin học cũng còn rất hạn chế. Chưa có công ty nào có KTV chuyên sâu về một số lĩnh vực đặc thù như kiểm toán hệ thống thông tin, kiểm toán hoạt động kinh doanh ngoại tệ.

Đặc biệt, một số công ty chỉ có 1 KTV (chiếm 37% các công ty), nên khi thực hiện kiểm toán cần huy động cán bộ từ các bộ phận khác. Và các cán bộ được huy động thêm này thường có rất ít hiểu biết về hoạt động kiểm toán, ví dụ như là các cán bộ tổng hợp, văn thư. Do vậy, chất lượng kiểm toán rất khó được đảm bảo.

Về vấn đề đào tạo


Việc đào tạo đối với KTV của các công ty hiện nay chưa thực sự được chú trọng. Hình thức đào tạo chủ yếu là người có kinh nghiệm hướng dẫn lại cho người chưa có


kinh nghiệm trong quá trình làm việc. Nội dung đào tạo có thể bao gồm cả về kỹ thuật nghiệp vụ kiểm tra, và các lĩnh vực hoạt động khác của các công ty. Nội dung trình bày chủ yếu là tổng kết kinh nghiệm kiểm tra, trong khi, như đã phân tích, bản thân hoạt động KTNB của các công ty còn rất nhiều hạn chế, hướng vào kiểm tra nhiều hơn là kiểm toán. Chỉ có khoảng một phần ba các công ty sử dụng dịch vụ đào tạo từ bên ngoài. Kết qủa là cán bộ KTNB vẫn không có cơ hội được đào tạo bài bản về kiểm toán.

Tóm lại, trình độ năng lực của đội ngũ KTV của các công ty còn nhiều hạn chế bất cập chưa đáp ứng được những yêu cầu của công việc. Điều này đương nhiên sẽ ảnh hưởng lớn tới hiệu quả của KTNB.

Thứ ba: việc xây dựng, hướng dẫn thực hiện kiểm toán chưa đầy đủ, đồng bộ


Việc xây dựng qui trình kiểm toán còn nhiều hạn chế. Qui trình KTNB do các CTTC ban hành tuy đã đề cập đến những nội dung cơ bản của KTNB, nhưng nhiều nội dung còn chưa cụ thể, hoặc mang tính chất của kiểm tra chi tiết. Ví dụ, một số qui trình đã hướng dẫn quá trình tìm hiểu, đánh giá HTKSNB, đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm toán nhưng vẫn còn chung chung, mang tính lý thuyết chứ chưa có hệ thống chuẩn đánh giá rủi ro cụ thể hoá cho hoạt động kinh doanh của công ty; hoặc chỉ mới hướng dẫn kiểm tra chi tiết nghiệp vụ, chưa đưa ra những bước phân tích và xác định rủi ro kiểm soát nhằm giới hạn và khoanh vùng phạm vi, nội dung kiểm toán trước khi thực hiện, từ đó tiết kiệm thời gian và nguồn nhân lực. Các thủ tục kiểm toán chưa được xác định đầy đủ, bao quát cho toàn bộ qui trình nghiệp vụ. Ví dụ đối với nghiệp vụ tín dụng bao gồm nhiều khía cạnh như phân tích và thẩm định tình hình tài chính của khách hàng, chấm điểm tín dụng, định giá tài sản đảm bảo, quản lý danh mục cho vay, phân loại nợ, tính và hạch toán thu lãi, kiểm tra sử dụng vốn vay, quản lý hồ sơ khách hàng… Việc kiểm toán mỗi mảng cần có những bước kiểm toán và cách thức thực hiện kiểm toán cụ thể, phù hợp đặc thù hoạt động của mỗi đơn vị. Thực tế cho thấy các CTTC chưa xây dựng được các chương trình kiểm toán cụ thể, chi tiết đối với các nghiệp vụ để tạo điều kiện cho việc thực hiện kiểm toán của các KTVNB.

Thứ tư: việc đánh giá rủi ro tại các CTTC chưa được thực hiện đầy đủ và hiệu quả

Tại các CTTC đã tổ chức bộ máy quản trị rủi ro gồm nhiều cấp tham gia, trong đó


bao gồm:


- HĐQT: ban hành các chính sách quản lý rủi ro


- Ban/phòng quản lý rủi ro: chịu trách nhiệm xem xét đánh giá rủi ro trong hoạt

động của đơn vị.


- Ban điều hành: chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các chiến lược, chính sách quản lý rủi ro đã được HĐQT phê duyệt.

- Các phòng/ban nghiệp vụ là bộ phận trực tiếp tham gia vào công tác quản lý rủi ro theo phân công của TGĐ và HĐQT.

Về mặt hình thức, cơ cấu tổ chức của bộ máy quản trị rủi ro của các công ty đã được thiết lập tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, các công ty chủ yếu mới chỉ ban hành được chính sách rủi ro, các hạn mức đối với các nghiệp vụ, nhưng chưa thực hiện việc xếp hạng rủi ro và xây dựng được hệ thống chỉ tiêu để các đơn vị, bộ phận thực hiện việc tự đánh giá và tự kiểm tra. Do chưa thực hiện được việc xếp hạng, đo lường rủi ro chi tiết nên việc đánh giá rủi ro cho mục đích lập kế hoạch kiểm toán chủ yếu do bộ phận KTNB tự thực hiện, trong khi đó thông tin mà bộ phận KTNB thu thập làm cơ sở cho việc đánh giá rủi ro khó đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện.

Thứ năm: mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động KTNB

thấp


Các ứng dụng của công nghệ thông tin sẽ giúp cho các KTV thực hiện một khối

lượng công việc lớn hơn với tốc độ nhanh hơn và chính xác hơn. Tuy nhiên mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, KTNB tại các CTTC hiện này còn rất hạn chế. Chưa có bộ phận KTNB nào sử dụng các chương trình phần mềm chuyên dụng cho KTNB (có các công cụ phân tích rủi ro, lên kế hoạch kiểm toán, hỗ trợ lập hồ sơ kiểm toán, chia sẻ thông tin từ xa giữa các KTVNB,....). Điều này hạn chế năng suất lao động của KTV và cản trở việc ứng dụng các kỹ thuật kiểm toán hiện đại.

KTNB chưa có chương trình riêng để khai thác được một cách hệ thống các thông tin bất thường – là những thông tin có khả năng tiềm ẩn nhiều rủi ro, chẳng hạn như các thông tin về sửa đổi hợp đồng tín dụng, sửa/xóa phiếu tính lãi, sửa lãi suất, kỳ hạn vay trên hệ thống… Khi thực hiện kiểm toán, cán bộ kiểm toán thường phải thu thập thông

Xem tất cả 260 trang.

Ngày đăng: 18/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí