định giá tài sản đảm bảo không sát với giá thị trường, đặc biệt có một số ngân hàng định giá tài sản là đất nông nghiệp chỉ định giá theo đơn giá của UBND tỉnh, nên còn rất thấp so với giá trị thực tế chuyển nhượng tại địa phương, điều đó ảnh hưởng nhất định đến mức cho vay của khách hàng.
Thứ sáu: Trình độ của cán bộ tín dụng vẫn chưa thực sự đổi mới, đặc biệt là kỹ năng thẩm định dự án, kiến thức về pháp luật, ngoại ngữ và kỹ năng giao tiếp khách hàng. Khả năng thẩm định còn hạn chế dẫn đến việc đánh giá tính khả thi và định kỳ hạn nợ không đáng tin cậy, cán bộ tín dụng chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo để quyết định cho vay. Đối với cán bộ tín dụng trẻ, có năng lực và trình độ nhưng lại thiếu kiến thức thực tiễn, thiếu hiểu biết về địa bàn và khách hàng vay vốn, thiếu tầm nhìn định hướng chiến lược kinh doanh vv . . . Mặt khác, một số cán bộ còn lại từ cơ chế cũ trước đây chuyển sang thêm vào đó một bộ phận cán bộ kém năng lực, phẩm chất đạo đức không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh đó, đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ còn hạn chế, trên thực tế đã có những cán bộ cho vay thông qua cò tín dụng, nâng khống giá trị tài sản, thẩm định không trung thực tính khả thi của của dự án, phương án để cho vay, sau đó vay ké hoặc lấy tiền của khách hàng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc mở rộng tín dụng và uy tín của các NHTM đối với khách hàng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Mặc dù các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều vấn đề với những mức độ khác nhau, song cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề này.
Tác giả đã xây dựng cùng với những đóng góp mới của Luận án đã tổng quan tình hình nghiên cứu về việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. HCM, và những vấn đề liên quan đến đề tài bên cạnh đó tác giả giới thiếu về tổng quan tình hình nghiên cứu ngoài nước và trong nước liên quan đến đề tài nghiên cứu mà các công trình chưa giải quyết được. Từ đó Tác giả đã đưa ra được một số khái niệm, một số giải pháp hoàn thiện nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. HCM trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh đó đã nghiên cứu để chỉ ra kết quả, hạn chế và những nguyên nhân chủ quan, khách quan của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. HCM.
Từ thực trạng trên, Tác giả đã xây dựng cùng với những đóng góp mới của Luận án để đưa ra một số vấn đề cần giải quyết nhằm giúp cho nhiệm vụ nghiên cứu trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP. HCM, từ nay đến năm 2020 và 2025.
CHƯƠNG 2
Có thể bạn quan tâm!
- Tín dụng ngân hàng đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 2
- Tình Hình Nghiên Cứu Trên Địa Bàn Tp. Hồ Chí Minh
- Một Số Nghiên Cứu Nêu Ở Góc Độ Tổng Quan, Chưa Phản Ánh Cụ Thể Các Tác Động Của Tín Dụng Ngân Hàng Đối Với Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế Tp. Hcm.
- Vai Trò Tín Dụng Ngân Hàng Đối Với Quá Trình Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế
- Mở Rộng Tín Dụng Ngân Hàng Với Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế.
- Kinh Nghiệm Mở Rộng Tín Dụng Ngân Hàng Của Một Số Nước Cho Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế
Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỞ RỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
2.1 TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
2.1.1 Khái niệm, đặc trưng của hoạt động tín dụng ngân hàng
Theo quan điểm của Các Mác “Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng, sau một thời gian nhất định sẽ thu hồi lại một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu” [14]
Kinh tế học hiện đại cho rằng “Tín dụng là mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả vốn gốc và lãi cho bên chuyển giao tiền hoặc tài sản vô điều kiện theo thời hạn đã thoả thuận” [21].
Theo Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 “cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”[20].
Như vậy, tín dụng là một phạm trù kinh tế, là hình thức vận động của vốn cho vay, phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa chủ thể sở hữu và chủ thể sử dụng đối với nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, là một sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị hay hiện vật theo những điều kiện cam kết mà hai bên đã thoả thuận, trên nguyên tắc có hoàn trả cả vốn và lãi.
Có thể nói bản chất của tín dụng biểu hiện mối quan hệ vay mượn và hoàn trả, thể hiện qua các nội dung:
– Người cho vay chuyển cho người vay một lượng giá trị nhất định.
– Người đi vay được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay phần vốn gốc cộng với khoản phí cơ hội mà người cho vay mất đi khi bỏ lỡ cơ hội đầu tư tốt hơn.
Từ bản chất tín dụng cho thấy, tín dụng ngân hàng phản ánh mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng và khách hàng trong đó ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội dưới nhiều hình thức và dùng số tiền huy động được đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn và phân bổ lại nguồn lực đầu tư của xã hội vào các lĩnh vực của nền kinh tế một cách có hiệu quả [21].
2.1.2 Bản chất của tín dụng
Tín dụng là quá trình vận động của vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác, sau một thời gian nhất định nó trở về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn. Để hiểu rõ bản chất tín dụng cần phải xem xét mối liên hệ kinh tế trong quá trình vận động của vốn tín dụng, quá trình này trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn phân phối vốn tín dụng: Tương ứng với giai đoạn cho vay. Vốn tiền tệ hoặc giá trị hàng hoá được tạm thời chuyển giao từ chủ thể cho vay sang chủ thể đi vay trên cơ sở chủ thể cho vay tin tưởng rằng chủ thể đi vay sẽ thực hiện đúng cam kết của mình.
Giai đoạn sử sụng vốn tín dụng: Ở giai đoạn này sau khi nhận được vốn tín dụng chuyển giao, chủ thể đi vay được quyền sử dụng giá trị vốn tín dụng đúng mục đích thoả thuận và có hiệu quả. Việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng và quyết định đối với việc thực hiện giai đoạn tiếp theo trong quá trình vận động tín dụng.
Giai đoạn hoàn trả vốn tín dụng: Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Ở giai đoạn này, chủ thể đi vay phải có nghĩa vụ thanh toán cho chủ thể cho vay toàn bộ giá trị vốn tín dụng và phần giá trị tăng thêm, gọi là lợi tức tín dụng.
Vậy, bản chất của tín dụng thể hiện qua 3 nội dụng sau:
+ Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời vốn trên cơ sở của sự tin tưởng, tín nhiệm.
+ Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời vốn trên cơ sở hoàn trả.
+ Tín dụng là sự vận động của tư bản cho vay.
2.1.3 Chức năng của tín dụng
2.1.3.1 Chức năng phân phối lại vốn tiền tệ trong nền kinh tế
Nhờ vào sự vận động của tín dụng mà các chủ thể thiếu hụt vốn có thể nhận được một phần vốn của xã hội phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng.
Quá trình phân phối vốn tín dụng được thực hiện dưới hai hình thức:
- Phân phối trực tiếp: Vốn từ chủ thể tạm thời thừa được chuyển giao sang chủ thể sử dụng vốn để sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng mà không cần thông qua một tổ chức trung gian nào.
- Phân phối gián tiếp: Việc phân phối được thực hiện thông qua các định chế tài chính trung gian như ngân hàng, quỹ tín dụng, công ty tài chính… Theo cách này, các tổ chức tài chính trung gian đứng ra huy động vốn tiền tệ từ các chủ thể tạm thời thừa để hình thành quỹ tiền tệ tập trung tại đơn vị. Trên cơ sở đó nó cung ứng cho các chủ thể khác có nhu cầu vay phục vụ sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng.
2.1.3.2 Chức năng tạo ra các công cụ lưu thông tín dụng và tiền tín dụng.
Khi quan hệ tín dụng được xác lập thì đồng thời một công cụ tín dụng cũng được hình thành nhằm đảm bảo cho việc tuân thủ các thỏa thuận tín dụng, như thương phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu… Các chủ thể nắm giữ các công cụ tín dụng kể trên khi chưa đến hạn thanh toán nhưng cần vốn phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng thì họ có thể chuyển nhượng hoặc cầm cố vay tiền. Như vậy, các công cụ tín dụng tiếp tục được lưu thông đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế.
Mặt khác, việc phát hành tiền hiện nay có thể được thực hiện thông qua con đường tín dụng. Ngân hàng Trung ương phát hành tiền ra lưu thông qua cơ chế cho vay như tái cấp vốn cho các ngân hàng trung gian, cho vay đối với ngân sách nhà nước… Đây là cơ sở đảm bảo cho lưu thông tiền tệ ổn định, đồng thời đảm bảo đủ phương tiện tiền tệ phục vụ lưu thông hàng hoá được bình thường.
Không chỉ ngân hàng Trung ương, bản thân các ngân hàng thương mại thông qua các hoạt động cho vay cũng tạo ra tiền dưới hình thức bút tệ.
2.2 TỔNG QUAN VÊ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
2.2.1 Cơ cấu kinh tế Khái niệm:
Thuật ngữ “cơ cấu kinh tế” được các nhà kinh tế đề cập trên các góc độ khác nhau. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng: “Cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân một nước là tổng thể mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các yếu tố và trong từng yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất với những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể trong những giai đoạn phát triển nhất định của xã hội” [25]; hoặc “Cơ cấu kinh tế là một tổng thể bao gồm nhiều yếu tố, giữa chúng có những mối liên hệ và tương tác qua lại cả về mặt chất lượng lẫn mặt số lượng, trong một khoảng thời gian và trong những điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. Tổng thể kinh tế đó cũng luôn vận động hướng vào những mục tiêu nhất định” ; hoặc “Cơ cấu kinh tế của một nước là tổng thể các quan hệ kinh tế hay các bộ phận hợp thành nền kinh tế; gắn với vị trí, trình độ công nghệ, quy mô, tỉ trọng tương ứng với từng bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa tất cả các bộ phận; gắn liền điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định; nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra” [16].
Nội dung cơ cấu kinh tế:
Từ khái niệm nêu trên, cơ cấu kinh tế thể hiện những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, cơ cấu kinh tế bao gồm các cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu thành
phần.
- Cơ cấu ngành của nền kinh tế quốc dân và nội bộ của từng ngành. Cơ cấu ngành
kinh tế là một kiểu cơ cấu trong toàn bộ hệ thống các cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, xác định theo mối quan hệ giữa các ngành và nội bộ ngành phân biệt với các loại cơ cấu kinh tế khác.
- Cơ cấu lãnh thổ là biểu hiện vật chất cụ thể của phân công lao động theo lãnh thổ, là không gian thích hợp các giao điểm của các quá trình và các sự kiện diễn ra trong nó.
Vì thế trình độ hình thành, phát triển và hoàn thiện của cơ cấu lãnh thổ hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển của phân công lao động theo lãnh thổ. Đến lượt mình, trình độ phát triển của phân công lao động theo lãnh thổ lại phụ thuộc vào trình độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá,mà động lực chính của nó là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ.
- Cơ cấu thành phần kinh tế là tổng thể các hình thức kinh tế của các khu vực kinh tế tồn tại trong các mối quan hệ tương tác với nhau, vận động và phát triển phù hợp với các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) tương ứng với nó.
- Cơ cấu kỹ thuật và công nghệ là tương quan giữa tổng thể các loại trình độ kỹ thuật và công nghệ tồn tại được hình thành trong mối quan hệ tương tác giữa công cụ thủ công, nửa cơ khí, cơ khí tự động hoá... trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Cơ cấu nguồn lực sản xuất là tương quan giữa các loại nguồn lực được sử dụng trong quá trình hoạt động kinh tế, trong đó loại quan trọng nhất là tương quan vốn và sức lao động.
- Cơ cấu của quá trình tái sản xuất xã hội là một cấu trúc của nền kinh tế được xem xét trên phương diện tương quan giữa 4 khâu của quá trình sản xuất - phân phối - lưu thông - tiêu dùng, ....
Các yếu tố cơ cấu của nền kinh tế nêu trên đều dựa trên mối quan hệ hữu cơ giữa chúng với nhau và đều thể hiện vai trò của nó trong việc chi phối sự hình thành, phát triển nền kinh tế mỗi quốc gia ở từng thời kỳ.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế luôn mang tính khách quan, tính lịch sử cụ thể cả về mặt về thời gian và không gian.
Qua đó chỉ ra, sự hình thành và vận động về mặt cơ cấu hay cấu trúc của một nền kinh tế nhất định luôn bị chi phối bởi các quy luật khách quan. Vận động của các quy luật khách quan làm thay đổi cơ cấu của mỗi nền kinh tế. Ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định, mỗi nền kinh tế thường có điều kiện, trình độ phát triển khác nhau, mức độ hoạt động và phát huy ảnh hưởng của các quy luật kinh tế khách quan cũng khác nhau, do đó cơ cấu của mỗi nền nền kinh tế, ở mỗi thời kỳ luôn có những nét đặc thù. Kết quả là luôn tồn tại sự khác biệt mang tính khách quan về cơ cấu kinh tế của các địa phương, các vùng, hay
các quốc gia. Những khác biệt này sẽ thay đổi cùng với quá trình vận động, phát triển của nền kinh tế.
Thứ ba,cơ cấu kinh tế luôn chịu sự tác động của con người,
Tuy cơ cấu kinh tế được hình thành một cách khách quan, song cũng luôn chịu sự tác động của con người; vì vậy nó luôn bao hàm tính hướng đích. Nói cách khác, trong mỗi giai đoạn nhất định, sự hình thành, vận động của chúng luôn hướng tới những mục tiêu kinh tế, kỹ thuật, xã hội nhất định.
Điều này được thể hiện khi nghiên cứu vai trò, vị trí, tầm quan trọng của yếu tố con người với tư cách một yếu tố không thể thiếu của cơ cấu kinh tế và là chủ thể của nền kinh tế. Với tư cách là chủ thể của nền kinh tế, con người chủ động vận dụng các quy luật kinh tế để tổ chức xây dựng cơ cấu kinh tế đảm bảo sao cho đạt được những mục đích nhất định.
2.2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Khái niệm:
Có thể hiểu một cách đơn giản, chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CD CCKT) là quá trình chuyển hoá từ một cơ cấu kinh tế với những đặc điểm đặc trưng nhất định sang một cơ cấu kinh tế có những đặc điểm đặc trưng khác đi.
Sự CD CCKT mang tính khách quan, quá trình này luôn diễn ra qua thời gian và không hoàn toàn lệ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Tuy vậy, khi đề cao tính chủ động, tích cực của yếu tố con người trong nền kinh tế thì có thể coi CD CCKT như là một quá trình vận động có chủ đích, do tác động chủ động của yếu tố chủ quan con người. Trên phương diện này có thể khái niệm "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình đòi hỏi sự tác động phù hợp của nhân tố chủ quan của con người bằng một hệ thống chính sách và biện pháp đồng bộ, tác động liên tục, phù hợp với quy luật và điều kiện khách quan thúc đẩy nhanh quá trình hình thành và phát triển CCKT mới" [9].
Từ các khái niệm nêu trên luận án rút ra:
CD CCKT là quá trình làm thay đổi các yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố hợp thành của nền kinh tế theo những mục đích và phương hướng nhất định.