kể thì nó vẫn tuân theo tuyến tính. Song, trong mỗi một sự kiện lại là từng vòng sóng đan chen giữa hiện tại và quá khứ. “Trên giường, em vùng dậy cắt ngang những câu lảm nhảm, đầu cua tai nheo của em… Cách đây nửa năm, tiền đồ của em như gấm hoa, nhưng giờ thì, em cảm thấy đang bên bờ vực thẳm…” [88, tr.335], “Đứng trên gò cao bên Rừng Vẹt, chuyện cũ dồn dập trở về. Trong khi em làm công nhân ở Rừng Vẹt thì bố em trở thành phái cầm quyền đi theo con đường tư bản, mẹ em thắt cổ chết. Mẹ Mã Thúc cũng tự sát bằng cách treo cổ, trước mẹ ruột em một ngày, y như hai người có hẹn từ trước” [88, tr.285], “Mỗi khi nhắc đến Rừng Vẹt, em lại đổi sắc mặt, hoặc từ đỏ sang trắng, hoặc từ trắng sang đỏ… Cách đây mấy chục năm, em cùng cậu ta lần đầu đi xe đạp về thăm Mã Cương, ký ức không dở chút nào. Đó là một buổi chiều vui vẻ đầy lãng mạn, có thể nói như thế. Mấy chục năm sau, vào một đêm trăng tròn cách đây ba tháng, em hẹn cậu ta về Rừng Vẹt, ngất ngây một nửa đêm bên nhau...” [88, tr.364]… Hàng loạt các sự kiện của hiện tại và quá khứ cứ gối lên nhau như những đợt sóng trào, chuyện quá khứ gối lên hiện tại, hiện tại quay về quá khứ, dồn dập. Cách kể chuyện này làm cho câu chuyện bị kéo căng ra, “chuyện nọ xọ chuyện kia” không còn phân định được ranh giới quá khứ - hiện tại. Đang ở hiện tại, Lâm Lam lại để quá khứ tuôn ào ạt. Từ quá khứ lại liên hệ tới thực tại, bao nhiêu câu chuyện cứ xô đẩy nhau. Hơn nữa trong câu chuyện xuất hiện hai mảng không gian khác nhau: không gian phố thị giàu có, sang trọng, ồn ã, náo nhiệt, với những con người thành thị đầy toan tính lọc lừa; không gian Rừng Vẹt yên tĩnh, trong xanh với những người dân nuôi ngọc trai lam lũ, vất vả. Một mảng màu rực rỡ và một mảng màu nhẹ nhàng cứ thế thi nhau xuất hiện, giống như sự chuyển cảnh điện ảnh. Trong tác phẩm, nhà văn còn thêu dệt lên những truyền kỳ xuất hiện giữa thời hiện đại tạo nên một không gian hư thực, ảo giác. Chính sự vận dụng kĩ thuật dán ghép các sự kiện đứt nối đã khiến thời gian của truyện chệch hướng. Cũng nhờ điều này mà người đọc phải luôn dõi theo mới nắm bắt được các sự kiện và tính cách nhân vật.
Tóm lại, việc chuyển thể từ văn học sang điện ảnh dưới góc nhìn liên văn bản là một sự dịch chuyển thể loại, loại hình. Trong sự dịch chuyển từ hệ thống kí hiệu này sang hệ thống kí hiệu khác, văn bản và kịch bản có mối quan hệ qua lại lẫn nhau. Trong văn học có yếu tố điện ảnh và ngược lại. Là loại hình nghệ thuật sử dụng rất nhiều các yếu tố kĩ thuật, kĩ xảo tiên tiến và đó cũng là điều mà văn học tiếp thu từ điện ảnh để tạo nên những tác phẩm độc đáo, hấp dẫn. Văn học cũng như điện ảnh đều manh tính truyền thông, do đó giữa chúng có sự kết nối: tác phẩm điện ảnh như
một lời hồi đáp của người đọc cho tác phẩm văn học. Đó không chỉ là sự chuyển vị, sự viết lại mà còn là tiếng nói tri âm!
Tiểu kết chương 4:
Mạc Ngôn luôn trăn trở, day dứt với những vinh quang và cay đắng mà từng nhân vật phải trải qua trong những cơn “nhào lộn” với lịch sử và cuộc đời. Vì thế, tác phẩm của Mạc Ngôn luôn chứa đựng một điều gì đó rất mới, rất khác, không lặp lại chính mình. Một nền văn hóa giàu truyền thống cùng với một kho Hán tự rất phong phú, giàu ý nghĩa đã giúp nhà văn đạt được thành công dụng ý nghệ thuật qua cách đặt tên tác phẩm và định danh nhân vật. Điều này không chỉ khẳng định tài năng của nhà văn mà còn góp phần định hướng cho việc tiếp cận liên văn bản. Bằng lối viết huyền ảo, Mạc Ngôn đã khái quát sâu sắc thực trạng thời đại, đem đến cho tác phẩm của mình những giá trị độc đáo. Ở Mạc Ngôn, người ta thấy có sự thống nhất và kế thừa. Mạc Ngôn thống nhất trong sự bền bỉ một lối viết đầy sáng tạo, phối hợp truyền thống và hiện đại, lấp lánh trong trang viết là hiện thực huyền ảo. Bên cạnh đó, nhờ tính liên văn bản của văn chương, ngôn ngữ và đời sống đã giúp Mạc Ngôn tha hồ tung hoành, phóng bút trong hoan lạc văn chương. Tất nhiên còn vì Mạc Ngôn tràn trề năng lượng, không ngừng nỗ lực tìm tòi, hấp thu, chuyển hoán, sáng tạo. Tác phẩm của Mạc Ngôn có sức chứa “lớn hơn một tác phẩm” bởi sự tích hợp, lồng ghép trong nó nhiều thể loại, tạo nên sự mới mẻ về hình thức và đóng góp lớn trong việc thể hiện dụng ý của nhà văn. Tóm lại, việc vận dụng lý thuyết liên văn bản để khai thác những yếu tố thuộc về nghệ thuật của nhà văn Mạc Ngôn đã giúp khám phá nhiều tầng nghĩa mới, mang lại khoái cảm thẩm mỹ cho độc giả.
KẾT LUẬN
1. Từ khi được J. Kriteva định danh đến nay, lý thuyết liên văn bản đã xác lập được một vị trí xứng đáng và khẳng định tầm quan trọng trong nghiên cứu, phê bình văn học. Việc khái lược lý thuyết liên văn bản đã cho chúng ta thấy thuật ngữ tính liên văn bản có lịch sử phức tạp, kéo theo hàng loạt các quan niệm khác nhau. Tự bản thân lý thuyết liên văn bản đã là một lý luận hiện đại, bởi nó ngụ ý một sự tương tác, dẫn dụng, kết nối một mạng lưới liên văn bản trong một văn bản cụ thể. Mọi văn bản đều hiện diện trong mối quan hệ với các văn bản khác. Nó thể hiện cụ thể qua các biểu hiện: lớp kí ức ngôn ngữ, sự tương tác, tái sinh của các hình tượng, biểu tượng, các các thủ pháp, mô típ và các hình thức mô phỏng, giễu nhại, ám chỉ, tương tác thể loại… Trong sự tương tác đó, nó “lật đổ” những quan niệm văn chương truyền thống về tính cội nguồn, đặc thù, đơn nhất và tự trị của tác phẩm, đồng thời đặt ra những cách tiếp cận mới về văn bản. Xét bản chất của sự viết đều có sự ảnh hưởng, giao hoán, biến đổi các văn bản khác, từ đó đưa ra những trải nghiệm đọc liên văn bản. Tính “năng sản” của văn bản cho phép người đọc có thể mở ra những kết nối văn bản không giới hạn, mở rộng ý nghĩa văn bản. Vì lẽ đó, liên văn bản còn cho thấy sức sống mãnh liệt trong nghiên cứu văn học bởi tính đối thoại liên văn bản của nó.
Những vấn đề lý thuyết về liên văn bản có lẽ vẫn còn nhiều phức tạp và có thể còn nhiều biến đổi trong phê bình, nghiên cứu văn học. Tuy nhiên về cơ bản chúng ta đã thấy được những ưu điểm vượt trội của lý thuyết liên văn bản trong việc khám phá các văn bản nghệ thuật. Tiếp cận liên văn bản là truy tìm mạng lưới các diễn ngôn xã hội – lịch sử ở nhiều cấp độ, trong đó văn bản này có thể là tiềm năng cho văn bản kia và ngược lại. Việc truy tìm hệ thống mạng lưới kí hiệu đó phụ thuộc vào năng lực, mục đích của người đọc nó.
2. Sự linh hoạt của lý thuyết liên văn bản đã mở hướng đi mới cho nghiên cứu, phê bình văn học. Lý thuyết này phù hợp cho việc tìm hiểu một “hiện tượng” văn học độc đáo như nhà văn Mạc Ngôn. Nhà văn thường xuyên đối thoại với lịch sử, văn hóa truyền thống nhưng vẫn không quên kết nối với văn hóa toàn cầu. Xuất phát từ điểm đặc biệt này, luận án đã vận dụng lý thuyết liên văn bản với những tính năng ưu việt để soi chiếu các tác phẩm của Mạc Ngôn. Chúng tôi đã khảo sát phần nào tính đối thoại liên văn bản trong các tiểu thuyết của ông, mong mỏi có cái nhìn khái quát, toàn vẹn hơn về phong cách độc đáo này. Đồng thời chúng tôi hi vọng công trình này có
thể góp phần làm rõ vai trò, tầm quan trọng của việc ứng dụng lý thuyết liên văn bản trong nghiên cứu văn học hiện nay.
Có thể bạn quan tâm!
- Tiểu thuyết của Mạc Ngôn nhìn từ lý thuyết liên văn bản - 17
- Liên Văn Bản Với Các Thể Loại Văn Học
- Liên Văn Bản Với Điện Ảnh/ Chuyển Thể Điện Ảnh
- Tiểu thuyết của Mạc Ngôn nhìn từ lý thuyết liên văn bản - 21
- Đôi Điều Về Mạc Ngôn - Nhà Văn “Không Bao Giờ Nói”
- Tiểu thuyết của Mạc Ngôn nhìn từ lý thuyết liên văn bản - 23
Xem toàn bộ 194 trang tài liệu này.
3. Lý thuyết liên văn bản cho phép nhận thức lại cách nhà văn sử dụng, viết lại/viết tiếp các văn bản trước đó một các có ý thức hoặc vô thức. Trong mối quan hệ liên văn bản, các tác phẩm của Mạc Ngôn đã có sự tương tác, đan xen với một chuỗi các văn bản khác nhau, đã liên kết đề tài, nhân vật và biểu tượng khá phong phú, đa dạng. Nó bao hàm văn hóa truyền thống và hiện đại, những phong tục, tập quán và dòng chảy của lịch sử dân tộc. Trong sự du hành vượt không gian, thời gian các hình tượng trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn mở ra nhiều tầng ý nghĩa và gợi nhiều liên tưởng. Đó là những nhân vật nữ vừa mang trong mình vẹn nguyên phẩm chất tính nữ lại vừa mang hơi thở của cuộc sống hiện đại. Đó là quan niệm mới mẻ, độc đáo của nhà văn về người anh hùng “rất hảo hán lại vừa mạt hạng”, khác hẳn với quan niệm về người anh hùng của các văn bản khác. Đó còn là những con người trần tục được khoác lên màu sắc liêu trai, huyễn hoặc trở nên kỳ lạ khác thường. Qua cách nhìn linh hoạt hơn trong sự kết nối văn bản, việc sáng tạo ra các biểu tượng trong tiểu thuyết Mạc Ngôn không chỉ là hành trình tìm về cội nguồn mà còn có khả năng tái sinh những ý nghĩa mới, tạo sự hấp dẫn. Nhờ đó người đọc khám phá được chiều sâu của tác phẩm cũng như những trăn trở, quan niệm sống của tác giả qua những trang viết lay động lòng người. Người đọc trong hữu thức và vô thức có thể cắt nghĩa được những vấn đề lớn của xã hội Trung Quốc đương thời nhờ có hiệu ứng “liên văn bản”. Theo Eco, tính đối thoại liên văn bản là hiện tượng một văn bản có sẵn hồi thanh với những văn bản trước đó, chính người đọc sẽ là nơi khiến những hồi thanh ấy vang lên. Do đó, bằng sự liên tưởng, tác giả hay người đọc sẽ gắn kết các văn bản lại với nhau trong mạng lưới các mối quan hệ của nó. Đồng thời, bằng kinh nghiệm và tri thức của mình, người đọc tự mở rộng liên tưởng để có những khám phá riêng.
4. Nhà văn bằng tài năng, sự sáng tạo của mình còn có thể làm mới những chất liệu đã cũ, hình thành nên một cấu trúc tác phẩm mới mẻ, độc đáo. Có thể nói, sức hấp dẫn của tiểu thuyết Mạc Ngôn còn được thể hiện trong tính liên văn bản ở góc độ hình thức nghệ thuật. Kế thừa nền văn hóa giàu bản sắc cùng một kho tàng Hán tự giàu ý nghĩa, Mạc Ngôn đã rất thành công trong việc đặt tên tác phẩm và gọi tên nhân vật như một sự mời gợi người đọc khám phá, khai mở chiều sâu các tầng nghĩa. Bên cạnh cách biết làm mới mẻ, độc đáo tác phẩm từ ấn tượng đầu tiên đó, Mạc Ngôn còn làm mê đắm lòng người bởi lối viết huyền ảo đầy hấp dẫn trong việc kế thừa xuất sắc
những mô típ quen thuộc của văn học Trung Quốc và thế giới. Lối viết này đem đến một cái nhìn khác về thực tại. Đặc biệt, hiệu ứng liên văn bản ở ngay trong bản thân ngôn ngữ như giễu nhại, ám chỉ đã có khả năng tạo ra những đối thoại ngầm, tác giả sẽ dẫn dắt người đọc vào mê lộ tự sự đầy hấp dẫn, cuốn hút. Tính chất của liên văn bản là một chuỗi các văn bản đan kết lại với nhau. Nhiều thể loại văn học/ phi văn học, chuyển thể điện ảnh đều có mặt tiểu thuyết Mạc Ngôn tạo nên một cấu trúc lai ghép, chắp vá, cần phải xâu chuỗi lại mới có thể nắm bắt toàn bộ câu chuyện. Có thể khẳng định, tác phẩm của Mạc Ngôn có sức chứa “lớn hơn một tác phẩm”, khiến ý nghĩa của tác phẩm được “đa bội” trong tâm ý người đọc.
5. Lý thuyết liên văn bản đã mở ra sự kết nối ở nhiều phương diện giữa các văn bản, giữa tác giả và người đọc. Trong sự kết nối văn bản, ý nghĩa của văn bản vì thế được mở rộng. Hơn nữa, bằng trải nghiệm đọc liên văn bản, người đọc sẽ có một hành trình khám phá vô tận trong việc tạo cho mình sự kết nối một mạng lưới văn bản riêng. Đây chính là tính năng nổi trội của tính liên văn bản. Trong tương lai, những tính năng này hứa hẹn ngày càng phong phú hơn.
Việc ứng dụng lý thuyết liên văn bản để khảo sát một “hiện tượng độc đáo” trong văn học Trung Quốc đương đại như Mạc Ngôn có ý nghĩa cả về thực tiễn và lý luận. Qua quá trình nghiên cứu, luận án đã góp phần làm rõ hơn tài năng cũng như những nỗ lực cách tân tiểu thuyết của Mạc Ngôn. Nhà văn đã dũng cảm đón luồng gió mới trong thời kì cải cách mở cửa, thể nghiệm ngòi bút bằng sự kết hợp độc đáo chủ nghĩa hiện thực huyền ảo với truyện kể dân gian, lịch sử và cuộc sống đương đại chứa đựng nhiều tư tưởng lớn lao. Luận án cũng đã góp phần khẳng định sự cần thiết và tính hiệu quả của việc áp dụng lý thuyết liên văn bản trong nghiên cứu văn học, đưa ra một hướng tiếp cận linh hoạt hơn trong nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, đây là công việc vô cùng khó khăn, vì trong điều kiện người viết chưa thể tiếp xúc với nguyên tác. Thế nên, trong phạm vi của luận án, có những điều chúng tôi chưa có điều kiện để đi sâu, có những điều bản thân người viết chưa phát hiện ra, bởi bản thân nghiên cứu khoa học vốn là “chưa hoàn kết”. Những gì trình bày ở trên chỉ là những kết quả bước đầu, mang tính gợi mở. Người viết hi vọng sau này sẽ có điều kiện để tiếp cận vấn đề một cách thấu đáo hơn.
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
* Các bài báo liên quan trực tiếp đến Luận án
1. Nguyễn Thị Bạch Hải (2017), “Truyền thống văn hóa trong Đàn hương hình của Mạc Ngôn từ góc nhìn liên văn bản”, Kỷ yếu Hội nghị khoa học trẻ 2017, Trường ĐHSP Huế, tr.74-80.
2. Nguyễn Thị Bạch Hải (2019), “Vấn đề nữ quyền trong tiểu thuyết Rừng xanh lá đỏ của Mạc Ngôn”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia, Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tr.722-729.
3. Nguyễn Thị Bạch Hải (2021), “Hình tượng nhân vật nữ trong tiểu thuyết Mạc Ngôn nhìn từ nguyên lí tính mẫu”, Tạp chí khoa học, Đại học Huế,
* Các bài báo liên quan gián tiếp đến Luận án
4. Nguyễn Thị Bạch Hải (2015), “Hành trình truy tìm những mảnh vỡ của sự thật qua nghệ thuật xây dựng vai kể với điểm nhìn chứng nhân trong tiểu thuyết của Mạch Gia”, Tạp chí khoa học, Kỷ yếu Hội nghị khoa học trẻ 2015, Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tr.235-239.
5. Nguyễn Thị Bạch Hải (2015), “Các biểu hiện của kiểu nhân vật phi thường trong tiểu thuyết của Mạch Gia”, Kỷ yếu Hội nghị khoa học trẻ 2015, Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tr.240-245.
6. Nguyễn Thị Bạch Hải (2017), “Bi kịch của kiểu nhân vật thiên tài trong tiểu thuyết của Mạch Gia”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia, Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tháng 03/2017, tr.66-73.
TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT
1. Allen. G (2015), Tính liên văn bản, (Nguyễn Văn Thuấn dịch, Nguyễn Như Trang hiệu đính), Lưu hành nội bộ, Huế.
2. Kôbô Abê, (2001), Khuôn mặt người khác, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
3. Tạ Duy Anh (2016), Đi tìm nhân vật, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
4. Nhuệ Anh (2006), “Mạc Ngôn: cá tính làm nên số phận”, báo văn nghệ số (15), tr.13.
5. Thái Phan Vàng Anh (2017), Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI – Lạ hóa một cuộc chơi, Nxb Đại học Huế, Huế.
6. Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn) (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lý thuyết, Nxb Hội nhà văn – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
7. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Giả Bình Ao (2004) (La Gia Tùng dịch), Cuộc tình, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
9. Giả Bình Ao (2005), Phế đô (tập 1, 2), Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Aristotle (2007), Nghệ thuật thơ ca, Lê Đăng Bảng, Thành Thế Thái Bình, Đỗ Xuân Hà, Thành Thế Yên Bái dịch, Nxb Lao động, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây.
11. Bakhtin. M (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn Hà Nội.
12. Lê Huy Bắc (2006), Nghệ thuật Phran-dơ Kap-ka, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Lê Huy Bắc (2009), Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và Gabriel García Márquez, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Lê Huy Bắc (2013), Văn học hậu hiện đại - Lý thuyết và tiếp nhận, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
15. Lê Huy Bắc, Lê Nguyên Cẩn, Đỗ Hải Phong (2013), Văn học hậu hiện đại - Lý thuyết và thực tiễn, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
16. Benac .H (2005), Dẫn giải ý tưởng văn chương (Nguyễn Thế Công dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Lê Nguyên Cẩn (2018), Diện mạo phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
18. Nguyễn Thị Mai Chanh và Bùi Thị Thùy Linh (2017), “Motif “ăn thịt người” trong Tửu quốc của Mạc Ngôn từ góc nhìn liên văn bản”, Nghiên cứu văn học, số (1).
19. Phạm Tú Châu (2003), “Tiểu thuyết tiên phong Trung Quốc ra đời nở rộ và trầm lắng”, Tạp chí Văn học số (12), tr. 41 – 48.
20. Phạm Tú Châu (2003), “Văn học Trung Quốc những năm 90: Tổng thể, phồn vinh, nguy cơ và tiềm ẩn”, Tạp chí Văn học nước ngoài số (3), tr. 223 - 227.
21. Nguyễn Linh Chi – Thành Đức Hồng Hà (2015), Tiếp nhận J.A. Joyce và A.S. Pushkin từ góc độ thi pháp, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
22. Chevalier .J, Gheerbrant .A (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng- Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
23. Thiều Chửu (1999), Từ điển Hán Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học – lý luận và ứng dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Nguyễn Văn Dân (2007), Từ điển Thần thoại Hi Lạp La Mã, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
26. Trương Đăng Dung (1998), Thế giới nghệ thuật của Franz Kafka, Tạp chí Văn học, tr.59 - 65.
27. Dương Ngọc Dũng (1999), Dẫn nhập tư tưởng lý luận văn học Trung Quốc, Nxb Văn học, Hà Nội.
28. Phan Huy Dũng (2008), “Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo dưới góc nhìn liên văn bản”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 12.
29. Lê Thị Dương (2017), “Khái lược tình hình nghiên cứu liên văn bản ở Trung Quốc (từ thập kỉ 70 thế kỉ XX đến nay)”, Nghiên cứu văn học, số 1/2017, tr. 84-93.
30. Võ Nguyễn Bích Duyên, (2011), Cái kỳ trong tiểu thuyết Mạc Ngôn, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
31. Trần Thiện Đạo (2015), Văn học phương Tây – Lý luận, phê bình & dịch thuật, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
32. Trần Xuân Đề (1998), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Trịnh Bá Đĩnh (2011), Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
34. Trịnh Bá Đĩnh (2016), Lịch sử Lý luận Phê bình Văn học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
35. Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên) (2018), Từ ký hiệu đến biểu tượng, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
36. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.