Concretely speaking, pls. deduct US$415 from this order. It is a half amount of last handy basket.
$0.83x1,000pcs=$830 $830/2=$415
If you could agree them, we will add to order those basket for 800pcs.
Also pls. introduce your new attractive basket thru email suit for Japanese market.
Do you have any other basket using except bamboo, for. ex. willow, rattan, seagrass or another
materials. Though I tried your home page, very difficut to find interesting new items because so
many items.
Waiting for your reply with best regards, K.TABATA
22.Thực hiện đơn hàng lần 2
Có thể bạn quan tâm!
- Thương mại điện tử 2009 Phần 2 - 25
- Qui Trình Ký Kết Và Thực Hiện Hợp Đồng Điện Tử Bằng Email
- Điều Chỉnh Mẫu – Xác Nhận Thanh Toán
- Thương mại điện tử 2009 Phần 2 - 29
- Thương mại điện tử 2009 Phần 2 - 30
- Thương mại điện tử 2009 Phần 2 - 31
Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.
2004-04-13
Dear Mr.Hoang ,
Thanks for your understanding.
Now, we'd like to place an order as below.
But pls. be care about the size(height) of square basket.
Our description of size is (28x28x11.5cm), but actual size is 28x28x10cm. Pls. be lenghthen the height about 1 cm both mother body and lid.
Also your size description of handy basket is (12x22x15cm), but actual size is 12x22x16cm. Re. this, pls. be just correct the description to 12x22x16cm.
Pls. obey those size strictly.
1. IP-MIY-005 Square basket (28x28x11.5cm) USD0.60(FOB) 3,700pcs
$2,220
2. IP-MIY-001 Handy basket (12x22x16cm) USD0.83(FOB) 800pcs
$664
Deduction for last inconvenience
▲$415
Trường Đại học Ngoại thương570
TOTAL $2,469
We will T/T to your bank in these sooner days.
Is your bank same as last time, 'BANK FOR FOREIGN TRADE OF VIETNAM'?
Let me know your approximate shipping date. Best regards,
Tabata
Phụ lục 3: Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử (Model Law on Electronic Commerce)
Phần I Khái quát về thương mại điện tử Chương I Các quy định chung
Điều 1: Phạm vi điều chỉnh.
Đạo luật này có hiệu lực áp dụng đối với mọi loại thông tin thể hiện dưới hình thức thông tin số hoá được sử dụng trong khuôn khổ các hoạt động thương mại. Điều 2: Giải thích từ ngữ.
Trong đạo luật này các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
a. “Thông tin số hoá” là thông tin được tạo ra, chuyển đi, tiếp nhận, lưu giữ bằng phương tiện điện tử, quang điện hoặc các phương tiện tương tự, đặc biệt là dưới hình thức trao đổi số liệu được tin học hoá ( Exchange des Données ìnỏmatisées - EDI), thư điện tử, điện tín, telex và telefax;
b. “Trao đổi số liệu được tin học hoá” (EDI) là việc truyền một thông tin bằng phương tiện điện tử từ máy điện toán này sang máy điện toán khác có sử dụng một chuẩn chung để cấu trúc và xử lý thông tin.
c. “Ngưởi gửi” là người mà vì người đó hoặc nhân danh người đó mà thông tin số hoá được chuyển đi hoặc được tạo ra trước khi được lưu giữ, chứ không phải người trung gian xử lý thông tin đó.
d. “Người nhận” là người mà người gửi dự kiến sẽ là người tiếp nhận thông tin số hoá được gửi tới, chứ không phải là người trung gian xử lý thông tin đó.
e. “Người trung gian” là người nhân danh một người khác chuyển, nhận lưu giữ một thông tin số hoá hoặc cung cấp các dịch vụ khác liên quan đến loại hình thông tin này.
f. “Hệ thống thông tin” là hệ thống được sử dụng để tạo ra, chuyển đi, tiếp nhận lưu giữ hoặc xử lý bằng mọi hình thức khác các thông tin số hoá.
Điều 3: Giải thích luật.
1. Khi giải thích luật, cần phải tính đến nguồn gốc quốc tế của đạo luật này và sự cần thiết phải đảm bảo áp dụng thống nhất đạo luật và tôn trọng sự ngay tình;
2. Các vấn đề nằm trong phạm vi điều chỉnh của đạo luật này mà chưa được quy định trong đạo luật này, thì sẽ được giải quyết theo các nguyên tắc chung làm cơ sở đạo luật này.
Điều 4: Các trường hợp ngoại lệ theo thoả thuận giữa các bên.
1. Trong quan hệ giữa các bên tham gia tạo ra, chuyển đi, lưu giữ, tiếp nhận hoặc xử lý dưới mọi hình thức khác các thông tin số, các bên có thể thoả thuận sửa đổi các quy định tại chương III, đạo luật này, trừ trường hợp có quy định ngược lại.
2. Khoản 1, điều này không áp dung đối với quyền sửa đổi theo thoả thuận các bên quy định pháp luật tại chương 2, đạo luật này.
Chương II Các điều kiện luật định đối với các thông tin số hoá. Điều 5: Công nhận giá trị pháp lý của các thông tin số.
Hiệu lực, giá trị pháp lý, hiệu lực thi hành của một thông tin không thể bị phủ nhận vì lý do duy nhất là thông tin đó được thể hiện dưới hình thức thông tin số hoá.
1. Trong trường hợp pháp luật quy định một thông tin phải được thể hiện dưới hình thức văn bản viết, thì một bản tin số được coi là đã thoả mãn điều kiện này nếu thông tin trong bản tin số có thể truy cập được sau này.
2. Điều kiện quy định tại khoản 1 được thể hiện dưới dạng một nghĩa vụ bắt buộc hoặc pháp luật chỉ đơn thuần quy định các hệ quả pháp lý nếu thông tin không được thể hiện dưới hình thức văn bản viết.
3. Các quy định tại điều này không áp dụng trong các trường hợp sau đây(…)
Điều 7 : Chữ ký.
1. Trong trường hợp pháp luật quy định một bản tin phải có chữ ký của một người nào đó, thì bản tin số được coi là đã thoả mãn điều kiện trên trong các trường hợp sau đây:
a. Đã sử dụng một phương pháp để xác định người ký và để chứng tỏ người đó phê duyệt thông tin chữa trong bản tin số đó.
b. Phương pháp được sử dụng có đủ độ tin cậy, xét trên phương diện đối tượng vì nó mà bản tin được tạo ra hoặc chuyển đi, tính đến tất cả các bối cảnh có liên quan, kể cả các thoả thuận liên quan đã ký.
2. Điều kiện quy định tại khoản 1 thể hiện dưới dạng một nghĩa vụ bắt buộc hoặc pháp luật chỉ đơn thuần quy định các hệ quả pháp lý nếu bản tin không có chữ ký thoả mãn yêu cầu trên.
3. Các quy định tại điều này không áp dụng trong các trường hợp sau đây:
Điều 8: Bản gốc.
1. Trong trường hợp pháp luật quy định một thông tin phải được thể hiện hoặc lưu giữ dưới hình thức bản gốc, thì một bản tin số được coi là thoả mãn điều kiện trên trong các trường hợp sau:
a. Bảo đảm đủ độ tin cậy về tính toàn vẹn của thông tin dể từ thời điểm thông tin được tạo ra lần đầu, dưới hình thức chính thức cuối cùng là một bản thông tin hay một hình thức khác;
b. Thông tin chứa trong bản tin số đó có thể giới thiệu được cho người mà nó cần phải được giới thiệu, trong trường hợp pháp luật quy định một thông tin phải được giới thiệu cho mọi người.
2. Điều kiện quy định tại khoản 1 thể hiện dưới dạng một nghĩa vụ bắt buộc hoặc pháp luật chỉ đơn thuần quy định các hệ quả pháp lý nếu thông tin không được giới thiệu hoặc lưu trữ dưới dạng văn bản gốc.
3. Theo quy định tại điểm a, khoản 1 :
a. Sự toàn ven của thông tin được đánh giá tuỳ thuộc vào việc thông tin có đầy đủ không và đã bị thay đổi chưa, trừ các trường hợp bổ sung, sửa đổi thực hiện trong tiến trình thông thường của việc thông tin liên lạc, lưu giữ và giới thiệu thông tin.
b. Mức độ tin cậy của thông tin được đánh giá tuỳ thuộc vào đối tượng vì nó mà thông tin được tạo ra và tính đến tất cả các tình huống liên quan.
4. Các quy định tại điều này không áp dụng trong các trường hợp sau đây:
Điều 9: Tính xác thực và khả năng được chấp nhận của thông tin số.
1. Không được viện dẫn một quy định về cung cấp chứng cứ trong một thủ tục pháp lý để bác bỏ khả năng chấp nhận một bản tin số được cung cấp làm bằng chứng:
a. Với lý do đó là một bản tin số, nên không thể sử dụng làm bằng chứng được; hoặc..
b. Với lý do là bản tin đó không thể hiện dưới dạng bản gốc, trong trường hợp đó là chứng cứ có giá trị nhất mà người phải cung cấp chứng cứ có thể có được. Thông tin được thể hiện dưới dạng một bản tin số được công nhận tính xác thực. Tính xác thực được đánh giá tuỳ thuộc vào độ tin cậy của cách thức tạo ra, lưu giữ và truyền tải bản tin, độ tin cậy của cách thức bảo toàn tính toàn toàn vẹn của thông tin, cách thức xác định căn cước của người gửi tin và tuỳ thuộc mọi đánh giá xác đáng khác.
Điều 10: Lưu giữ các thông tin số.
Trong trường hợp pháp luật quy định hồ sơ, tài liệu, bản tin hoặc thông tin phải được lưu giữ, thì điều kiện này coi như thoả mãn nếu các hồ sơ, tài liệu hay bản tin đó được lưu giữ dưới dạng thông tin số, nhưng phải tuân thủ các điều kiện sau:
a. Thông tin chứa trong bản tin số có khả năng truy cập, tra cứu được sau này;
b. Bản tin số cần phải được lưu giữ dưới hình thức mà nó đã được tạo ra, gửi đi hoặc tiếp nhận hoặc dưới một hình thức khác chứng tỏ bản tin đó thể hiện chính xác các thông tin đã được tạo ra, được gửi đi hoặc được tiếp nhận;
c. Mọi thông tin cho phép xác định xuất xứ và nơi đến của bản tin số cũng như mọi dấu hiệu về ngày, giờ gửi hoặc nhận bản tin cũng phải được lưu giữ, nếu có. Nghĩa vụ lưu giữ hồ sơ, tài liệu, thông tin theo quy định tại khoản 1 không áp dụng cho các thông tin chỉ liên quan tới việc gửi hoặc nhận bản tin số.
Điều kiện quy định tại khoản 1 có thể được thoả mãn bằng cách sử dụng dịch vụ của người khác, nhưng phải tuân thủ các điều kiện quy định tại các điểm a,b và c, khoản 1.
Chương III
Thông tin liên lạc bằng thông tin số hoá
Điều 11. Hình thức hợp đồng và giá trị pháp lý của hợp đồng.
Trong giai đoạn hình thành hợp đồng, các bên có thể sử dụng hình thức thông tin số để gửi và nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Khi sử dụng hình thức thông tin số trong giai đoạn hình thành hợp đông, thì không thể bác bỏ giá trị pháp lý hay hiệu lực thi hành của bản tin số đó chỉ với lý do duy nhất đó là một bản tin số.
Các quy định tại điều này không áp dung trong các trường hợp sau đây(…)
Điều 12: Các bên ký kết hợp đồng công nhận giá trị pháp lý của các thông tin số.
1. Trong quan hệ giữa người gửi và người nhận một bản tin số, hiệu lực, giá trị pháp lý của việc bày tỏ ý chí của một người không thể bác bỏ với lý do duy nhất là việc bày tỏ ý chí đó được thể hiện dưới hình thức một bản tin số.
2. Các quy định tại điều này không áp dụng trong các trường hợp sau đây: ..
Điều 13. Xuất xứ của thông tin số hoá.
1. Một bản tin số có xuất xứ từ người gửi, nếu đã được chính người gửi chuyển đi.
2. Trong quan hệ giữa người gửi và người nhận, một bản tin số được coi là có xuất xứ từ người gửi, nếu đã được chuyển đi bởi:
a. Một người được uỷ quyền gửi bản tin đó nhân danh người gửi:
b. Một hệ thống thông tin được lập trình để vận hành tự động bởi chính người gửi hoặc nhân danh người gửi.
3. Trong mối quan hệ giữa người gửi và người nhận, người nhận có quyền coi một bản tin số có xuất xứ từ người gửi và hành động trên cơ sở bản tin đó nếu:
a. Người nhận đã áp dụng đúng thủ tục mà trước đó đã được người gửi chấp nhận, nhằm xác định chắc chắn là bản tin số đó có xuất xứ từ người gửi; hoặc
b. Bản tin số nhận được thông qua hành vi của một người, bằng những mối quan hệ với người gửi hoặc nhân viên của người gửi, đã tiếp cận được với phương pháp mà người gửi sử dụng để xác định bản tin số đúng là có xuất xứ từ mình.
4. Các quy định tại khoản 3 không áp dụng cho các trường hợp sau:
a. Người nhận đã được gửi thông báo rằng bản tin số không phải xuất xứ từ người đó và rằng người nhận được hưởng một thời hạn hợp lý để hành động; hoặc
b. Trong trường hợp quy định tại điểm b, khoản 3, người nhận biết rằng hoặc cần phải biết rằng bản tin só đó không phải xuất xứ từ người gửi nếu áp dụng các biện pháp phù hợp hoặc sử dụng một thủ tục phù hợp.
5. Trong trường hợp một bản tin số có xuất xử từ ngừoi gửi hoặc đựơc suy đoán là có xuất xứ từ người gửi, hoặc trong trường hợp người nhận được quyền hành động căn cứ vào sự suy đoán này, thì người nhận, trong mối quan hệ với người mình và do đó có thể coi bản tin số nhận được là bản tin mà người gửi có ý định gửi cho mình và do đó có thể hành động dựa trên các thông tin chứa trong bản tin đó.
Người nhận không được quyền hành động như vây, nếu như người đó biết rằng hoặc cần phải biết rằng quá trình truyền tải đã làm sai lệch nội dung bản tin số mà người đó nhận được, nếu áp dụng các biện pháp xác minh phù hợp hoặc đã sử dụng một thủ tục phù hợp.
6. Người nhận có quyền coi mỗi bản tin số nhận được là riêng rẽ với bản tin khác và hành động trên cơ sở thông tin chữa trong bản tin số đó. Trừ trường hợp bản tin đó là sử nhắc lại của một bản tin khác và trừ trường hợp người nhận biết được rằng hoặc cần phải biết đựơc rằng hai bản tin đó chỉ là một, nếu đã áp dụng các biện pháp xác minh phù hợp hoặc đã sử dụng một thủ tục phù hợp.
Điều 14: Thông báo xác nhận đã nhận được thông tin.
1. Các quy định tại khoản 2,3 và 4 điều này được áp dụng trong trường hợp người gửi, trước khi hoặc khi gửi bản tin số hoặc trong chính bản tin số đó, đã đề nghị người nhận thông báo xác nhận đã nhận được thông tin hoặc đã thoả thuận với người nhận là phải có thông báo xác nhận khi nhận được thông tin.
2. Nếu người gửi chưa thoả thuận với người nhận về việc gửi thông báo xác nhận dưới một hình thức hoặc theo một phương thức đặc biệt, thì việc thông báo xác nhận sẽ được thực hiện: