Hiệu Quả Của Các Can Thiệp Phòng, Chống Đái Tháo Đường

này tăng nhanh ở các thành phố lớn (4,0% năm 2000 so với 7,2% năm 2008) [9]. Tại Trà Vinh, nghiên cứu năm 2004 cho kết quả tỷ lệ bệnh đái tháo đường ở người trên 35 tuổi là 3,7% [46].

Tại tỉnh Hậu Giang, năm 2009, nghiên cứu tỷ lệ bệnh đái tháo đường lứa tuổi từ 40 – 69 tuổi là 9,8% và ở nhóm dân tộc khác là 11,8% [34]. Theo Trần Minh Long và cộng sự (2010) nghiên cứu tại Nghệ An, tỷ lệ đái tháo đường týp 2 ở người từ 30 – 69 tuổi là 9,37% và tỷ lệ tiền đái tháo đường là 17,97% [36]. Tại Trà Vinh, Cao Mỹ Phượng năm 2012 nghiên cứu về bệnh đái tháo đường đã cho kết quả tỷ lệ bệnh đái tháo đường tương đương ở người trên 45 tuổi là 9,5% và tiền đái tháo đường có tỷ lệ cao hơn 19,3% [47]. Nghiên cứu của Ngô Thanh Nguyên và cs (2012), nghiên cứu tình hình đái tháo đường ở đối tượng từ 30 tuổi trở lên tại thành phố Biên Hòa năm 2011 cho thấy tỷ lệ mắc ĐTĐ người 30 trở lên là 8,1%, trong đó nữ là 51,9% và nam là 48,1% [44]. Những công trình điều tra dịch tễ trên cho tỷ lệ mắc tiền ĐTĐ, ĐTĐ không giống nhau do đối tượng nghiên cứu khác nhau, thời điểm khác nhau và tiêu chuẩn chẩn đoán thay đổi

Bên cạnh rất nhiều những công trình nghiên cứu dịch tễ học có rất ít nghiên cứu công bố về kết quả can thiệp tại Việt Nam. Nghiên cứu của Tạ Văn Bình và cs (2004) trên đối tượng mắc bệnh ĐTĐ cho kết quả có sự thay đổi tích cực về kiến thức, thái độ, hành vi tự chăm sóc sau khi được giáo dục [6]. Tác giả Nguyễn Vinh Quang (2007) nghiên cứu hiệu quả can thiệp trên cộng đồng tại Nam Định, Thái Bình từ năm 2002 đến 2004 cho thấy có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực về nhận thức và hành vi, giảm tỷ lệ tiến triển từ TĐTĐ sang ĐTĐ, giảm chỉ số BMI và HbA1c sau can thiệp 18 tháng [52].

Các nghiên cứu trên đây phần nào góp tiếng nói trong lãnh vực dịch tễ học ĐTĐ và y học dự phòng. Tỷ lệ mắc TĐTĐ – ĐTĐ có vẻ rất khác nhau giữa các vùng trong nước, tỷ lệ mắc TĐTĐ – ĐTĐ thay đổi nhiều theo từng nghiên cứu có thể do đối tượng khác nhau, tiêu chuẩn chẩn đoán của TĐTĐ – ĐTĐ thay đổi cùng với tình trạng đô thị hóa nhanh chóng, kinh tế xã hội phát triển, lối sống tĩnh tại hưởng thụ dẫn đến

con người tiếp xúc nhiều yếu tố nguy cơ trong cộng đồng làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh TĐTĐ - ĐTĐ trong những năm gần đây.

1.3 HIỆU QUẢ CỦA CÁC CAN THIỆP PHÒNG, CHỐNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

1.3.1. Các biện pháp phòng, chống đái tháo đường trên thế giới.

Cách ngăn chặn phát triển thành bệnh đái tháo đường týp 2, ở người lớn được chẩn đoán tiền đái tháo đường, nếu thực hiện việc thay đổi hành vi lối sống có thể phòng tránh và làm chậm quá trình bệnh tiến triển lên thành ĐTĐ týp 2. Kết quả từ chương trình phòng chống bệnh ĐTĐ của cơ quan về dịch vụ sức khỏe và con người Hoa Kỳ (HHS) tiến hành trên 3.000 người cho thấy giảm từ 5 - 7% kg cân nặng có thể làm giảm 58% nguy cơ bệnh tiến triển lên ĐTĐ týp 2. Có thể giảm cân bằng cách ăn kiêng (giảm chất béo và lượng calo ăn vào) cũng như tập thể dục với mức độ vừa phải tối thiểu 150 phút một tuần (hầu hết những người tham gia nghiên cứu chọn đi bộ).

Năm 1989, Hội nghị Y tế toàn cầu lần thứ 42 đã kêu gọi thế giới hành động về

phòng và kiểm soát bệnh ĐTĐ theo khung của Nghị quyết WHA42.36 [75].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Sau sự kiện này, nhằm hưởng ứng tích cực lời kêu gọi trên thế giới đã diễn ra những hành động như “Tuyên bố the St. Vincent ở Châu Âu năm 1994”, “Tuyên bố và kế hoạch hành động của khu vực Tây Thái Bình Dương năm 2000” tương tự là “Tuyên bố và chiến lược của khu vực cận Sahara năm 2008” và “Tuyên bố Kathmandu trong năm 2008” [82].

Nghị quyết WHA 42.36 có thể nói đã mở đầu cho sự phát triển của Chương trình Phòng chống ĐTĐ ở cấp độ quốc gia. Các chương trình này ở mỗi nước là phương tiện cho các quốc gia phân bổ nguồn lực một cách rõ ràng để ngăn ngừa bệnh ĐTĐ và chăm sóc cho người bị ĐTĐ, có thể được xem như là một cam kết của các nước để phòng chống bệnh ĐTĐ [82].

Thực trạng bệnh đái tháo đường, tiền đái tháo đường ở người Khmer tỉnh Hậu Giang và đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp - 5

Vào năm 2006, Liên hợp quốc (UN) đã công bố Nghị quyết UN61/225 về phòng chống ĐTĐ với thông điệp kêu gọi: “Các nước thành viên xây dựng chính sách quốc gia để điều trị, phòng chống và chăm sóc của bệnh ĐTĐ phù hợp với sự phát triển bền vững của hệ thống chăm sóc sức khỏe của họ, tiến đến thống nhất mục tiêu phát triển quốc tế bao gồm cả các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ”

Liên đoàn ĐTĐ Quốc tế (IDF) đang phát triển mô hình hữu ích để hỗ trợ các nước cần thiết kế một chương trình phòng chống bệnh ĐTĐ quốc gia. Theo IDF, một thiết kế chương trình phòng chống ĐTĐ quốc gia phải bao gồm những mục tiêu là nâng cao nhận thức cộng đồng xúc tiến quốc gia, truyền thông và giáo dục; phòng ngừa cấp 1 nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ; thay đổi hành vi và điều trị nhằm phát hiện sớm bệnh làm giảm biến chứng, tử vong.

Mặc dù thay đổi lối sống có hiệu quả cao để phòng ngừa TĐTĐ - ĐTĐ týp 2, trong thời gian qua đã có một số khuyến cáo can thiệp bằng thuốc để phòng ngừa TĐTĐ - ĐTĐ týp 2. Vào thập niên 80, thuốc được sử dụng Sulphonylurea, Tolbutamide cho những người có rối loạn dung nạp glucose. Những năm gần đây Metformin, thuốc ức chế glucosidase là Acarbose, chất ức chế lipase dạ dày ruột là Orlistat và Thiazolidinediones (TZDs) được nghiên cứu điều trị TĐTĐ týp 2.

Căn cứ trên những nghiên cứu lâm sàng và những ý tưởng như sự dung nạp và chi phí, Metformin được khuyến cáo là một lựa chọn điều trị nếu có chỉ định điều trị TĐTĐ týp 2 bằng thuốc. Đặc biệt, Metformin được chấp nhận trên bệnh nhân dưới 60 tuổi với BMI từ 30 kg/m2 trở lên căn cứ trên những dữ liệu trong nghiên cứu của Chương trình Phòng ngừa ĐTĐ Mỹ. Heikes K.E. (2008) đề nghị một công cụ sàng lọc không can thiệp TĐTĐ và ĐTĐ chưa được chẩn đoán trong dân số Mỹ có 8 biến số bao gồm tuổi, vòng bụng, yếu tố di truyền, chiều cao, dân tộc, tăng huyết áp, tiền sử gia đình và tập thể dục [95].

Tóm lại, Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế và các Hội Đái tháo đường của nhiều nước trên thế giới đang quan tâm đặc biệt đến bệnh tiền ĐTĐ, ĐTĐ týp 2 và nỗ lực can thiệp nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh nâng cao sức khỏe cộng đồng.

1.3.2. Các biện pháp phòng chống đái tháo đường ở Việt Nam

Hiện, cả nước có trên 2 triệu người mắc đái tháo đường týp 2, 3% dân số. Còn theo kết quả một cuộc điều tra sơ bộ mới đây tại Hà Nội, Thái Nguyên, Thái Bình, Nghệ An, có tới 16,3% số người từ 25 tuổi trở lên mắc bệnh tăng huyết áp. Vì thế, việc cần làm trước mắt là phải đánh giá và sàng lọc những đối tượng có nguy cơ cao tại cộng đồng và cơ sở y tế nhằm phát hiện sớm những người mắc bệnh không lây nhiễm;

tập trung xây dựng các mô hình trọng điểm về phòng chống bệnh không lây nhiễm dựa

vào cộng đồng.

ĐTĐ là căn bệnh nguy hiểm đến tính mạng con người và gây nhiều tổn thất kinh tế cho xã hội do chi phí điều trị rất cao. Bệnh ĐTĐ, trong đó chủ yếu là ĐTĐ týp 2 85

- 95%. Đây là bệnh do tác động qua lại của cả 2 yếu tố là di truyền và môi trường. Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy nếu loại trừ tình trạng thừa cân, béo phì và ít hoạt động thể lực (2 yếu tố nguy cơ chính gây bệnh) thì có thể phòng ngừa việc nhiễm căn bệnh này. Một hướng phòng chống bệnh được chú ý là việc can thiệp lối sống cộng đồng, thay đổi hành vi ăn uống sinh hoạt (thay đổi chế độ ăn thừa đạm, mỡ, chất béo bằng sinh hoạt ăn, ngủ điều độ, vận động thể lực hợp lý) được coi là giải pháp dự phòng hiệu quả, ngăn ngừa tình trạng gia tăng tỷ lệ người mắc ĐTĐ hiện nay.

Tình hình quản lý bệnh ĐTĐ ở nước ta còn nhiều hạn chế, mạng lưới y tế quản lý bệnh ĐTĐ chưa phủ khắp toàn quốc, mà mới tập trung ở một vài trung tâm y tế lớn của quốc gia; số cán bộ có khả năng khám và điều trị bệnh ĐTĐ còn thiếu về mặt số lượng và hạn chế về mặt kiến thức; trang bị để chẩn đoán và theo dõi bệnh nhân còn lạc hậu; bệnh nhân thường được chẩn đoán ở giai đoạn muộn và nhiều biến chứng. Một nghiên cứu ở Yên Bái tỷ lệ bệnh ĐTĐ lần lượt 69,7%; 80,6% không được phát hiện và điều trị; Tại Nghệ An tỷ lệ bệnh ĐTĐ 69,7%; có 64% không được phát hiện và điều trị [31]. Nhận thức của cộng đồng về bệnh ĐTĐ và phòng bệnh còn nhiều hạn chế. Người mắc bệnh ĐTĐ còn bi quan trong điều trị do thấy rằng điều trị ít có hiệu quả. Những người có yếu tố nguy cơ thì không biết những nguy cơ mắc bệnh của mình cũng như kiến thức về phòng bệnh [28].

Chương trình phòng chống một số bệnh không lây nhiễm giai đoạn 2002 - 2010, có đề cập đến mục tiêu giảm tỷ lệ mắc, biến chứng và tử vong của bệnh ĐTĐ. Để chống bệnh ĐTĐ có hiệu quả, không thể chỉ trông chờ vào cơ quan y tế, vào kỹ thuật tiên tiến, mà toàn xã hội phải tự thấy có trách nhiệm, từ việc tuyên truyền giáo dục, đến việc cải tiến công nghệ thực phẩm, thay đổi lối sống, thực hiện chế độ ăn uống hợp lý kết hợp với gia tăng vận động. Điều này không chỉ để phòng bệnh ĐTĐ mà còn góp

phần vào việc phòng ngừa các bệnh mạn tính không lây khác (bệnh tăng huyết áp, ung thư, tim mạch,...) và giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng.

1.3.3. Các chương trình phòng chống bệnh đái tháo đường.

Hiện nay, theo Tổ chức Y tế thế giới, bệnh ĐTĐ đã được công nhận là bệnh đặc biệt nghiêm trọng đe dọa đến sức khỏe và sự phát triển kinh tế ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy vào năm 1989, Hội nghị lần thứ 42 của Hội nghị Y tế toàn cầu (Hội đồng Y tế toàn cầu - WHA) đã thông qua lời kêu gọi toàn cầu hành động về phòng và kiểm soát bệnh ĐTĐ theo khung của Nghị quyết WHA 42.36 và phản ứng triển khai của năm châu lục cũng đã được thông qua. Sau sự kiện này, một loạt hành động khác nhằm hưởng ứng tích cực lời kêu gọi này trên thế giới đã diễn ra như Tuyên bố The St. Vincent ở châu Âu năm 1994; Tuyên bố và kế hoạch hành động của khu vực Tây Thái Bình Dương; chiến lược của khu vực cận Sahara năm 2008 và Tuyên bố Kathmandu trong năm 2008 [82].

Nghị quyết WHA 42.36 có thể nói đã mở đầu cho sự phát triển của chương trình phòng chống ĐTĐ ở mức độ quốc gia. Các chương trình này ở mỗi nước là phương tiện mà các quốc gia phân bổ nguồn lực một cách rõ ràng để ngăn ngừa bệnh ĐTĐ và chăm sóc cho người bị ĐTĐ và do đó có thể được xem như là một chỉ số của sự cam kết của các nước để đối phó với bệnh ĐTĐ [82].

Tiếp theo Nghị quyết WHA42.36 thì vào năm 2006, Liên hợp quốc (UN) đã công bố Nghị quyết UN61/225 về phòng chống ĐTĐ bao gồm ba thông điệp chính, một trong đó kêu gọi. “Các nước thành viên xây dựng chính sách quốc gia để điều trị, phòng chống và chăm sóc của bệnh ĐTĐ phù hợp với sự phát triển bền vững của hệ thống chăm sóc sức khỏe của họ, tính đến thống nhất mục tiêu phát triển quốc tế bao gồm cả các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.”

Tình hình chương trình phòng chống bệnh đái tháo đường

Để hưởng ứng lời kêu gọi này của Liên hợp quốc, Liên đoàn ĐTĐ Quốc tế (IDF), tổ chức đóng vai trò then chốt trong việc phòng chống bệnh ĐTĐ toàn cầu, đã tổ chức “Lực lượng đặc biệt chuyên trách về chính sách quốc gia về ĐTĐ và hành động” để tiến hành khảo sát 202 thành viên Liên đoàn ĐTĐ Quốc tế trong năm 2008 để xác

định sự tồn tại, nội dung và tình hình thực hiện của chương trình phòng chống ĐTĐ tại quốc gia của họ. Kết quả cuộc khảo sát này cho thấy, có một nửa các thành viên của Hiệp hội đã phản hồi lại với IDF và 61% trong số 89 nước trả lời thông báo rằng tại đất nước họ đã có chương trình quốc gia phòng chống bệnh ĐTĐ. Và 3/4 số kế hoạch của các nước này đã được thực hiện. Bên cạnh đó, trong 2/3 nước thì chương trình quốc gia phòng chống bệnh ĐTĐ nằm trong chiến lược quốc gia chung về bệnh không lây truyền. Các quốc gia còn lại báo cáo rằng họ có kinh phí dành riêng cho chương trình quốc gia phòng chống bệnh ĐTĐ.

Cuộc điều tra đã chứng minh rằng có một sự gắn kết mạnh mẽ về hoạt động của các quốc gia về phòng chống bệnh ĐTĐ trên thế giới. Tuy nhiên, nó cũng chứng minh sự cần thiết của một nỗ lực phối hợp để khuyến khích và hỗ trợ các nước mà không có và những nước có chương trình này nhưng không hoạt động để phát triển và thực hiện kế hoạch phòng chống và chăm sóc toàn diện nhằm giảm gánh nặng của bệnh ĐTĐ cho gia đình, cá nhân và xã hội trên toàn cầu.

1.3.4 Thiết kế chương trình phòng chống bệnh đái tháo đường.

Để hỗ trợ các nước cần thiết kế một chương trình phòng chống bệnh ĐTĐ quốc gia, Liên đoàn ĐTĐ Quốc tế, đang phát triển thiết kế hữu ích để giúp đỡ họ trong việc này và xây dựng chương trình này đòi hỏi các nước phải xem xét và cung cấp nguồn lực cho phát triển và thực hiện nó. Chương trình này cũng sẽ phải bao gồm đo lường được vấn đề (tình trạng bệnh và chi phí điều trị), can thiệp để giảm thiểu tác hại (bao gồm phòng chống, chẩn đoán sớm, dịch vụ và chăm sóc người bị bệnh ĐTĐ) và sau cùng là đánh giá tác động của các can thiệp.

Theo Liên đoàn ĐTĐ Quốc tế, một thiết kế chương trình phòng chống ĐTĐ quốc gia phải bao gồm những mục tiêu sau:

- Nâng cao nhận thức công chúng, xúc tiến quốc gia, thông tin và giáo dục.

- Phòng ngừa tiểu học (giảm tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ).

- Thay đổi hành vi và điều trị (phát hiện sớm bệnh làm giảm biến chứng, tử vong, giảm thiểu tác hại và thay đổi hành vi).

- Nâng cao chất lượng chuyên môn và đào tạo cho nhân viên chăm sóc bệnh nhân ĐTĐ (nhân viên y tế).

- Phát triển hướng dẫn quốc gia về điều trị của bệnh ĐTĐ

- Hỗ trợ cho nghiên cứu khoa học về bệnh ĐTĐ.

- Thiết lập một hệ thống đăng ký bệnh ĐTĐ.

Chắc chắn sự thành công hay không của các chương trình phòng chống bệnh ĐTĐ quốc gia phải tập trung vào câu hỏi liệu nó có phải chương trình bền vững hay không và rất rõ ràng rằng các phong trào xây dựng chương trình quốc gia phòng chống bệnh ĐTĐ bắt đầu 20 năm trước với Nghị quyết WHA42.36 của tổ chức y tế thế giới và hiện đang được hỗ trợ của Liên hợp quốc bằng Nghị quyết 61/225, sẽ mang tính bền vững và có khả năng gắn kết một cuộc chiến mạnh mẽ và thành công chống lại bệnh ĐTĐ [82].

1.3.5 Các mô hình can thiệp phòng chống bệnh đái tháo đường.

1.3.5.1. Khái niệm về mô hình.

Mô hình là một cách trình bày đơn giản của thực tế, trong đó một số khía cạnh của sự chính xác có thể bỏ qua hoặc được giả thuyết là không thay đổi để các khía cạnh khác có thể quan sát rõ hơn. Có hai nhóm mô hình:

Nhóm các mô hình “chuẩn” liên quan tới mô tả những hiện tượng có thể xảy ra

trong những điều kiện đặc biệt nào đó - điều kiện không hiện thực.

Nhóm các mô hình “mô tả” đưa ra những hiện tượng gần với thực tế nhất, nhóm này được phát triển và ứng dụng mạnh mẽ hơn.Trong lĩnh vực y tế các tác giả thường thể hiện các mô hình “mô tả” bằng lời hoặc bằng biểu đồ, sơ đồ hoặc mô hình toán học.

1.3.5.4. Nội dung can thiệp phòng chống đái tháo đường trong cộng đồng.

- Can thiệp thay đổi chế độ ăn uống

Khuyến cáo chế độ ăn giảm rối loạn lipid máu bao gồm giảm lượng chất béo, cholesterol, tăng protein ít béo, tăng chất xơ, chất bột 60-70% tổng năng lượng trong ngày, hạn chế đường mật [30].

- Can thiệp khuyến khích tăng cường hoạt động thể lực

+ Khái niệm về hoạt động thể lực, hoạt động thể lực được xác định là sự vận động của cơ thể được tạo ra bởi sự co giãn của cơ xương và sự gia tăng tiêu thụ năng lượng trên mức cơ bản. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, hoạt động thể lực bao gồm 4 thành phần [2].

Tập thể dục thể thao, công việc chân tay, đi lại bằng phương tiện không có động cơ, một số việc nhà như gánh nước, kiếm củi. Khối lượng thực sự hoạt động thể lực cần thực hiện tùy thuộc vào mục tiêu thích hợp của mỗi người.

Ảnh hưởng của hoạt động thể lực và chế độ ăn kiêng. Nghiên cứu áp dụng chế độ ăn giảm mỡ, cholesterol < 100mg/ngày, carbohydrate >70% kcal và sợi xơ 35g/1000 kcal, tập thể dục nhịp điệu và đi bộ, kết quả cho thấy giảm có ý nghĩa mức cholesterol máu 20%, đường 16% [2],[50].

Tác dụng giảm béo, nghiên cứu cho thấy tập luyện các bài tập rèn sức bền thường xuyên có hiệu quả giảm béo cao. Trong loại hình vận động này thì đi bộ nhanh là phương pháp giảm béo rất tốt. Đi bộ nhanh kết hợp chế độ ăn uống hạn chế thức ăn có chứa nhiều ca-lo-ri sẽ có tác dụng giảm cân nhanh [2]. Quy trình luyện tập thường là đi bộ nhanh 5-7 buổi/ tuần, mỗi buổi 40-60 phút trong 4-6 tháng, rồi sau đó chuyển sang tập luân phiên giữa đi bộ nhanh và chạy bước nhỏ để tăng cường phát triển chức năng của hệ thống tim mạch và hô hấp [1],[2]

- Những khuyến cáo can thiệp về hoạt động thể lực

Để giảm nguy cơ bệnh tim, giảm cholesterol, ĐTĐ người trưởng thành cần 30 phút hoạt động vừa phải trong hầu hết và tốt nhất là tất cả những ngày trong tuần bằng các hoạt động như đi bộ nhanh, chạy bộ, đạp xe, bơi ...Mức hoạt động này cũng có thể làm giảm nguy cơ đột quỵ, ung thư đại tràng, THA, ĐTĐ và những vấn đề sức khỏe khác với cường độ về sau càng tăng hơn, ở 50-85% nhịp tim tối đa [52]. Thời gian trong một ngày có thể chia ra mỗi lần 15 phút hoặc 10 phút . Nếu cần cố gắng để duy trì cân nặng và dự phòng tăng cân, cần 60 phút hoạt động từ vừa đến mạnh hầu hết những ngày trong tuần, đồng thời chú ý lượng calori thu vào chỉ cần vừa đủ để duy trì cân nặng, nếu cần để giảm cân nên cố gắng 60 phút- 90 phút hoạt động mạnh vừa phải

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 12/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí