Lý Luận Liên Quan Đến Việc Thực Hiện Chính Sách


b) Khái niệm về quản lý trật tự xây dựng

Quản lý trật tự xây dựng hiện được quy định chi tiết tại Điều 56 của Nghị định số 15/2021/NĐ- CP. Theo quy định tại điều luật này thì việc quản lý trật tự xây dựng phải được thực hiện từ khi tiếp nhận thông báo khởi công, khởi công xây dựng công trình cho đến khi công trình bàn giao đưa vào sử dụng (Khoản 1 Điều 56). Việc quy định này yêu cầu các cơ quan nhà nước phải có sự giám sát việc thực hiện các hoạt động xây dựng ngay từ ban đầu, kịp thời phát hiện những sai phạm ngay từ ban đầu để giải quyết, tránh các trường hợp đã thực hiện xong, thực hiện phần lớn công trình mới tìm thấy sai phạm, khi đó gây hậu quả rất lớn [6].

Về nội dung nội dung về quản lý trật tự xây dựng thì:

Như ở mục trên đã viết, việc quản lý trật tự xây dựng được thực hiện thông qua Giấy phép xây dựng, nên đối với công trình được cấp giấy phép xây dựng thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc quản lý dựa trên các nội dung của giấy phép xây dựng đã được cấp cho chủ dự án xây dựng và dựa trên quy định của pháp luật có liên quan như pháp luật đất đai, pháp luật xây dựng,… Khi cấp Giấy phép xây dựng, các cơ quan nhà nước đã tiến hành các hoạt động kiểm tra, xem xét việc tuân thủ pháp luật của dự án, nên khi quản lý trật tự xây dựng, thì các cơ quan căn cứ và những nội dung chi tiết đã được phê duyệt đó để cấp Giấy phép xây dựng [6].

Có rất nhiều công trình được miễn cấp Giấy phép trật tự xây dựng, thì nội dung quản lý trật tự xây dựng đối với các công trình này gồm: kiểm tra công trình có đáp ứng các điều kiện về cấp giấy phép xây dựng như đối với công trình cần cấp giấy phép xây dựng; kiểm tra sự tuân thủ của việc xây dựng với quy hoạch xây dựng hoặc quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành hoặc quy chế quản lý kiến trúc hoặc thiết kế đô thị được phê duyệt và quy định của pháp luật có liên quan; kiểm tra sự phù hợp của việc xây dựng


với các nội dung, thông số chủ yếu của thiết kế đã được thẩm định đối với trường hợp thiết kế xây dựng đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định (điểm b, khoản 2 Điều 56) [6].

Như vậy, đối với các công trình được miễn cấp giấy phép xây dựng, thì các nội dung quản lý trật tự xây dựng vẫn đủ các nội dung cơ bản như về điều kiện thực hiện các hoạt động xây dựng, điều kiện về tuân thủ quy hoạch, đảm bảo các điều kiện về thiết kế,…. [6].

Trong quá trình xây dựng, mà cơ quan quản lý trật tự xây dựng phát hiện dự án xây dựng có hành vi vi phạm, thì các cơ quan này phải yêu cầu dừng thi công công trình, tiến hành xử lý vi phạm theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý vi phạm trật tự xây dựng theo quy định pháp luật [6].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.

Cơ quan có thẩm quyền quản lý trật tự xây dựng đó chính là Ủy ban nhân dân các cấp. Theo đó thì Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm về quản lý trật tự xây dựng đối với các công trình xây dựng trên địa bàn theo phân cấp, hoặc theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Các cơ quan này trực tiếp thực hiện các hoạt động theo dõi, kiểm tra các công trình xây dựng, từ đó phát hiện, ngăn chặn, xử lý các vi phạm. Các cơ quan này cũng có quyền cưỡng chế đối với các công trình có những vi phạm trật tự xây dựng theo thẩm quyền [6].

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện về quản lý trật tự xây dựng các công trình xây dựng trên địa bàn, đồng thời, dựa trên các đặc thù của tỉnh mà Ủy ban nhân dân tỉnh quy định chi tiết về quản lý trật tự xây dựng, đảm bảo áp dụng thống nhất trên toàn tỉnh và đảm bảo tuân thủ pháp luật. Ủy ban nhân dân tỉnh phân cấp, ủy quyền quản lý trật tự xây dựng cho Ủy ban nhân dân cấp dưới. Đồng thời, cơ quan này cũng tiến hành tiếp nhận thông báo khởi công kèm theo hồ sơ thiết kế xây dựng của công trình đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thông báo kết quả thẩm định thiết kế xây dựng [6].

Thực hiện chính sách quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk - 3


Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân tỉnh còn ban hành quy chế quản lý kiến trúc hoặc thiết kế đô thị cho từng khu vực trong phạm vi tỉnh để các cơ quan cấp dưới dùng những quy chế đó để làm cơ sở cấp giấy phép xây dựng và quản lý trật tự xây dựng đối với khu vực chưa có quy hoạch chi tiết. Ủy ban nhân tỉnh tiến hành chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã liên tục theo dõi, kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời khi phát sinh vi phạm trên địa bàn; hoặc tiến hành cưỡng chế công trình vi phạm trật tự xây dựng trên địa bàn trong các trường hợp luật định [6].

1.2. Lý luận liên quan đến việc thực hiện chính sách

1.2.1. Mục đích, yêu cầu của thực hiện chính sách công

1.2.1.1. Mục đích thực hiện chính sách công

Mục đích của thực hiện chính sách công là thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng, chứ không đơn giản chỉ là dừng lại ở việc giải quyết vấn đề thực hiện chính sách công.

1.2.1.2. Yêu cầu của thực hiện chính sách công

a) Yêu cầu thực hiện mục tiêu:

Thực hiện chính sách là những hoạt động cụ thể của các cơ quan quản lý Nhà nước và các đối tượng chính sách nhằm đặt được những mục tiêu trực tiếp đã đề ra; tổng hợp hết quả thực hiện mục tiêu của các chương trình, dự án và các hoạt động thực hiện khác thành mục tiêu chung của chính sách.

Nhà nước phải xác định mục tiêu của từng chính sách thật cụ thể, rõ ràng và chuẩn xác khi muốn thực hiện thành công các chính sách. Bên cạnh đó, các cơ quan chuyên môn phải triển khai thực hiện và chuyển mục tiêu chính sách thành chương trình và kế hoạch cụ thể.

b) Yêu cầu đảm bảo tính hệ thống:

Tổ chức thực hiện chính sách là một bộ phận cấu thành của chu trình chính sách, kết hợp chặt chẽ với các bộ phận khác trong chu trình chính sách,


kết hợp chặt chẽ với các bộ phận khác trong chu trình tạo nên một hệ thống thống nhất. Vì vậy phải đảm bảo tính hệ thống trong mỗi quá trình.

c) Yêu cầu phải bảo đảm lợi ích cho các đối tượng thụ hưởng:

Các nhóm lợi ích luôn tồn tại trong xã hội, tập hợp các cá nhân tổ chức chia sẻ những lợi ích nhất định, biến động theo không gian và thời gian. Các nhóm lợi ích có vai trò xung đột trong xã hội. Do đó, các nhóm lợi ích sẽ được hưởng thụ khác nhau tùy theo tính chất của mỗi chế độ xã hội.

Chính sách là công cụ để Nhà nước bảo vệ và chuyển lợi ích đến các đối tượng thụ hưởng trong xã hội. Để công cụ này phát huy tác dụng, cần phải có sự hường ứng thực hiện một cách tự giác trên cơ sở lòng tin của dân chúng vào chính sách của Nhà nước.

1.2.2. Quy trình thực hiện chính sách công

1.2.2.1. Bước 1 - Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công

- Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, đây là bước cần thiết và quan trọng vì tổ chức thực thi chính sách là quá trình phức tạp, lại diễn ra trong thời gian dài do đó phải có kế hoạch.

- Kế hoạch này phải được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống, các cơ quan triển khai từ Trung ương đến địa phương đều phải lập kế hoạch bao gồm các bước sau:

+ Kế hoạch về tổ chức, điều hành như hệ thống các cơ quan tham gia, đội ngũ nhân sự, cơ chế thực thi;

+ Kế hoạch cung cấp nguồn vật lực như tài chính, trang thiết bị;

+ Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện;

+ Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách;

+ Dự kiến về quy chế, nội dung về tổ chức và điều hành thực thi chính sách; về các biện pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực hiện chính sách công; về trách nhiệm, nhiệm vụ và quyền hạn của cán


bộ, công chức và các cơ quan quản lý nhà nước tham gia: Tổ chức điều hành chính sách.

1.2.2.2. Bước 2 - Phổ biến, tuyên truyền chính sách công

- Phổ biến, tuyên truyền chính sách. Đây là công đoạn tiếp theo sau khi chính sách đã được thông qua. Nó cũng cần thiết vì giúp cho nhân dân, các cấp chính quyền hiểu được về chính sách và giúp cho chính sách được triển khai thuận lợi và có hiệu quả;

- Để làm được việc tuyên truyền này thì chúng ta cần được đầu tư về trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, trang thiết bị kỹ thuật, ... Vì đây là đòi hỏi của thực tế khách quan.

- Việc tuyên truyền này cần phải thực hiện thường xuyên liên tục, ngay cả khi chính sách đang được thực thi, và với mọi đối tượng và trong khi tuyên truyền phải sử dụng nhiều hình thức như tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp hoặc trao đổi, ...

1.2.2.3. Bước 3 - Phân công, phối hợp thực hiện chính sách công

- Phân công phối hợp thực hiện chính sách. Một chính sách thường được thực thi trên một địa bàn rộng lớn và nhiều tổ chức tham gia do đó phải có sự phối hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ;

- Mặt khác các hoạt động thực thi mục tiêu là hết sức đa dạng, phức tạp chúng đan xen, thúc đẩy lẫn nhau, kìm hãm bởi vậy nên cần phối hợp giữa các cấp, ngành để triển khai chính sách;

- Nếu hoạt động này diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách một cách chủ động khoa học sáng tạo thì sẽ có hiệu quả cao, và duy trì ổn định.

1.2.2.4. Bước 4 - Duy trì chính sách công

- Duy trình chính sách, đây là bước làm cho chính sách tồn tại được và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế;


- Để duy trì được chính sách đòi hỏi phải có sự đồng tâm, hiệp lực của nhiều yếu tố như nhà nước và người tổ chức thực thi chính sách phải tạo điều kiện và môi trường để chính sách được thực thi tốt;

- Đối với người chấp hành chính sách phải có trách nhiệm tham gia tích cực vào thực thi chính sách. Nếu các hoạt động này được tiến hành đồng bộ thì việc duy trì chính sách là việc làm không khó.

1.2.2.5. Bước 5 - Điều chỉnh chính sách công

- Điều chỉnh chính sách, việc làm này là cần thiết, diễn ra thường xuyên trong quá trình tổ chức thực thi chính sách. Nó được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thông thường cơ quan nào lập chính sách thì có quyền điều chỉnh;

- Việc điều chỉnh này phải đáp ứng được việc giữ vững mục tiêu ban đầu của chính sách, chỉ điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu. Hoạt động này phải hết sức cẩn thận và chính xác, không làm biến dạng chính sách ban đầu.

1.2.2.6. Bước 6 – Theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện CSC

- Theo dõi, giám sát kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách. Bất cứ triển khai nào thì cũng phải kiểm tra, đôn đốc để đảm bảo các chính sách này được thực hiện đúng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực;

- Các cơ quan nhà nước thực hiện việc kiểm tra này và nếu tiến hành thường xuyên thì giúp nhà quản lý nắm vững được tình hình thực thi chính sách từ đó có những kết luận chính xác về chính sách;

- Công tác kiểm tra này cũng giúp cho các đối tượng thực thi nhận ra những hạn chế của mình để điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách.

1.2.2.7. Bước 7 - Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm


- Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm, khâu này được tiến hành liên tục trong thời gian duy trì chính sách;

- Trong quá trình này ta có thể đánh giá từng phần hay toàn bộ chính sách ở việc đánh giá này phải tiến hành đối với cả các cơ quan nhà nước và đối tượng thực hiện chính sách;

- Trong các bước trên thì bước tổ chức thực thi là quan trọng nhất vì đây là bước đầu tiên làm cơ sở cho các bước tiếp theo, ở bước này đã dự kiến cả việc triển khai thực hiện kế hoạch phân công thực hiện, kiểm tra, ... Hơn nữa tổ chức thực thi là quá trình phức tạp do đó lập kế hoạch là việc làm cần thiết.

1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách quản lý trật tự xây dựng

Trong quá trình thực hiện chính sách sẽ có liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân vì thế kết quả tổ chức thực hiện chính sách cũng sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó có yếu tố chủ quan và khách quan; cụ thể như sau:

1.2.3.1. Yếu tố khách quan

- Yếu tố khách quan là các yếu tố xuất hiện và tác động đến tổ chức thực hiện chính sách từ bên ngoài, độc lập với ý muốn của chủ thể quản lý, các yếu tố này vận động theo quy luật khách quan nên ít tạo sự biến đổi do đó cũng khó gây sự chú ý của các nhà quản lý nhưng lại tác động lớn đến quá trình thực hiện chính sách, đó là các yếu tố:

+ Tính chất của vấn đề chính sách là yếu tố gắn liền với mỗi chính sách nó có tác động trực tiếp đến hoạch định và thực hiện chính sách có nghĩa là nếu vấn đề chính sách đơn giản liên quan đến ít đối tượng thì thực hiện sẽ dễ dàng và đơn giản hơn. Như vậy, tính chất của vấn đề có ảnh hưởng khách quan đến việc tổ chức thực hiện chính sách nhanh hay chậm, thuận lợi hay khó khăn.


+ Môi trường thực hiện chính sách là yếu tố liên quan đến các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng,... điều này nói lên rằng một môi trường ổn định ít biến đổi về chính trị sẽ đưa tới sự ổn định về hệ thống chính sách và thực hiện thuận lợi. Nếu các bộ phận của môi trường ổn định thì nó sẽ tạo cho các hoạt động thực hiện dễ dàng.

+ Mối quan hệ giữa các đối tượng thực hiện chính sách là sự thể hiện thống nhất hay không về lợi ích của các đối tượng trong quá trình thực hiện mục tiêu chính sách. Nếu mối quan hệ này có mâu thuẫn thì sẽ ảnh hưởng đến công tác tổ chức.

+ Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách được hiểu là thực lực và tiềm năng của các nhóm trong mối quan hệ so sánh với các nhóm đối tượng khác. Tiềm lực này thể hiện trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, ...

+ Đặc tính của đối tượng chính sách là những tính chất đặc trưng mà các đối tượng có được từ bản tính cố hửu hoặc do môi trường sống tạo nên, các đặc tính như tính tự giác, kỷ luật, sáng tạo, ... gắn liền với mỗi đối tượng thực thi chính sách do đó cần biết cách khơi dậy hay kiềm chế nó để có kết quả tốt nhất cho quá trình thực hiện chính sách.

1.2.3.2. Yếu tố chủ quan

- Yếu tố chủ quan là các yếu tố thuộc về cơ quan công quyền, do cán bộ công chức chủ động chi phối đến quá trình thực thi chính sách nên nó có ảnh hưởng lớn đến việc thực thi.

- Thực thi đúng đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực thi chính sách, các bước này được coi là nguyên lý khoa học được đúc kết từ thực tiễn cuộc sống, việc tuân thủ quy trình là một nguyên tắc quản lý.

- Năng lực thực thi chính sách của cán bộ công chức trong bộ máy quản lý nhà nước là yếu tố chủ quan có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực thi chính sách công. Năng lực thực thi của cán bộ, công chức là các tiêu chí về

Xem tất cả 94 trang.

Ngày đăng: 10/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí