đổ thẳng trực tiếp ra môi trường sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường sống của các loại động vật, thực vật, vi sinh vật.
Đối với sức khỏe con người: Những hợp chất trong chất thải nếu không được xử lý sẽ là mầm mống của các dịch bệnh nguy hiểm như: nhiễm khuẩn, viêm da, biến đổi gen, ung thư,… Vì vậy việc phân loại , xử lý rác thải trước khi thải ra môi trường chính là bảo vệ sức khỏe của mọi người và của chính chúng ta.
Thế hệ tương lai: Thực thi quản lý chất thải hiệu quả có thể cung cấp các thế hệ tiếp theo một nền kinh tế mạnh mẽ hơn, một xã hội công bằng hơn, toàn diện hơn và một môi trường sạch hơn.
Thực tế đã minh chứng, thực hiện chính sách thông qua các biện pháp, giải pháp, công cụ sẽ góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội, luôn có tác động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội. Trong đó, các quy định của pháp luật về công cụ kinh tế, như: phí, lệ phí,… giúp tạo nguồn tài chính; các công cụ về tuyên truyền góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của người dân để đảm bảo cho họ được hưởng quyền sống trong môi trường không ô nhiễm.
1.3. Quy trình thực hiện chính sách quản lý rác thải sinh hoạt
1.3.1. Xây dựng Kế hoạch thực hiện chính sách quản lý rác thải sinh hoạt
Tổ chức thực thi chính sách quản lý rác thải sinh hoạt là quá trình phức tạp diễn ra trong một thời gian dài với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau. Do đó, cần thiết phải lập kế hoạch nhằm đảm bảo tính chủ động, tính thực tiễn trong quá trình triển khai thực hiện với các nội dung cụ thể:
- Kế hoạch về tổ chức, điều hành với các nội dung dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ thể và phối hợp triển khai thực hiện chính sách; số lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực thi, cơ chế thực thi,...;
- Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực, như: Nguồn lực về tài chính, trang thiết bị hỗ trợ,...;
- Kế hoạch về thời gian triển khai thực hiện với các giai đoạn mục tiêu khác nhau nhằm duy trì chính sách, dự kiến các bước tổ chức triển khai thực hiện từ tuyên truyền chính sách đến tổng kết rút kinh nghiệm;
Có thể bạn quan tâm!
- Thực hiện chính sách quản lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội - 1
- Thực hiện chính sách quản lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội - 2
- Thực Hiện Chính Sách Quản Lý Rác Thải Sinh Hoạt
- Kinh Nghiệm Về Quản Lý Rác Thải Sinh Hoạt Ở Việt Nam
- Dân Số Trung Bình Của Huyện Hoài Đức Giai Đoạn 2018 – 2020
- Hoạt Động Thu Gom Rác Thải Sinh Hoạt Huyện Hoài Đức
Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.
- Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách, gồm những dự kiến về tiến độ, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực thi chính sách. Dự kiến,
xây dựng nội quy, quy chế hoạt động, tổ chức điều hành, quy trách nhiệm, nhiệm vụ đối với tổ chức, cá nhận tham gia thực hiện chính sách…
1.3.2. Tổ chức phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách
Để chính sách đi vào thực tiễn, phổ biến, tuyên truyền là bước tiếp theo của xây dựng kế hoạch triển khai. Đó là quá trình tuyên truyền, vận động cán bộ, nhân dân tham gia thực hiện chính sách quản lý rác thải sinh hoạt - hoạt động giữ vai trò quan trọng để giúp các đối tượng tham gia thực thi chính sách và người dân hiểu về mục đích, yêu cầu của chính sách, về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh của từng địa phương; qua đó, phát huy được tính tự giác, tính dân chủ cơ sở của người dân và nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực hiện có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao bằng các hình thức phù hợp. Tiến trình này phải diễn ra thường xuyên, liên tục để thay đổi nhận thức, hành vi kết hợp với các biện pháp quản lý khác để đạt được mục tiêu.
1.3.3. Phân công phối hợp thực hiện chính sách:
Trong thực hiện chính sách, công tác phân công phối hợp giữ vai trò cấp thiết, ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, phân công cơ quan, đơn vị chủ trì công tác quản lý rác thải sinh hoạt; các cơ quan, địa phương liên quan có trách nhiệm phối hợp thực hiện chính sách; tiến trình phân công phối hợp phải được thực hiện một cách chặt chẽ, diễn ra ở nhiều cấp độ: phối hợp theo chiều dọc tức là giữa các cơ quan ngành với địa phương, giữa cấp trên với cấp dưới; phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong cùng khu vực hành chính; trong phân công cần chú ý đến năng lực của từng tổ chức, cá nhân để tránh chồng chéo .
1.3.4. Theo dòi, đôn đốc, đánh giá thực hiện chính sách
Quá trình thực thi chính sách được thực hiện đồng bộ, có nhiều cơ quan, tổ chức và nhân dân tham gia; Điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở từng nơi khác nhau, trình độ tổ chức thực thi của cán bộ công chức không đồng đều; trong quá trình triển khai chính sách quản lý rác thải sinh hoạt các cơ quan nhà nước phải thường xuyên kiểm tra đôn đốc việc thực hiện chính sách, qua kiểm tra, đôn đốc các mục tiêu và biện pháp chủ yếu của chính sách lại được khẳng định để nhắc nhở mỗi cán bộ công chức cũng như đối tượng thực thi chính sách tập trung chú ý
những nội dung ưu tiên trong quá trình thực hiện; kiểm tra thường xuyên việc thực hiện chính sách quản lý rác thải sinh hoạt sẽ giúp cho từng cấp, từng ngành, từng địa phương kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc; Từ đó, có cơ sở đánh giá được mặt mạnh, yếu của công tác tổ chức thực thi chính sách để điều chỉnh.
Công tác kiểm tra, đôn đốc này còn giúp cho từng ngành, từng địa phương thực thi chính sách biết được những hạn chế của mình để điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện. Thực hiện tốt vấn đề trên vừa kịp thời hoàn thiện, bổ sung chính sách vừa chấn chỉnh công tác tổ chức thực thi chính sách góp phần nâng cao hiệu lực hiệu quả việc thực thi chính sách quản lý rác thải sinh hoạt.
1.3.5. Tổng kết, đánh giá thực hiện chính sách
Tổ chức thực thi chính sách được tiến hành liên tục trong thời gian duy trì chính sách, trong thời gian đó việc tổ chức sơ kết, tổng kết việc thực hiện chính sách là để đánh giá từng phần hay toàn bộ kết quả thực hiện chính sách; trong đó, đánh giá toàn bộ được thực hiện sau khi kết thúc chính sách, đánh giá tổng kết từng bước thực thi chính sách được hiểu là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực thi chính sách; quá trình nhằm kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện mục tiêu chính sách.
Việc tổ chức đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm, nhằm điều chỉnh, bổ sung việc thực hiện chính sách; đồng thời, xem xét vai trò, chức năng của các tổ chức, cá nhân trong việc tham gia thực thi chính sách; cơ sở để tổng kết công tác chỉ đạo điều hành thực thi chính sách trong các cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao, những nội quy, quy chế được xây dựng, đồng thời có kết hợp việc sử dụng các văn bản có liên quan giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và các văn bản quy phạm khác để xem xét tình hình phối hợp, chỉ đạo điều hành thực thi chính sách của các tổ chức chính trị và xã hội với nhà nước; đánh giá thực hiện chính sách là một nội dung mà các bên liên quan cần đưa ra những nhận định khách quan về tính hiệu quả, hiệu lực, phù hợp và ổn định của chính sách
1.4. Các nhân tố tác động đến thực hiện chính sách quản lý rác thải sinh hoạt
1.4.1. Các yếu tố về chính sách
Công tác quản lý rác thải sinh hoạt trong những năm qua của nước ta được chính phủ và nhà nước hết sức quan tâm, thể hiện bằng các văn bản chính sách, pháp
luật quản lý rác thải, quy chế bao bì hay sử dụng các công cụ kinh tế như giấy phép rác thải,… đã được phát triển nhằm hướng tới hạn chế phát thải ra môi trường.
Luật bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 bao gồm một số điều sửa đổi, bổ sung của Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua và ban hành ngày 23 tháng 06 năm 2014; quy định về hoạt động bảo vệ môi trường: Chính sách, biện pháp, nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trên lãnh thổ đất nước. Luật tạo điều kiện bảo tồn đa dạng sinh học; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo; đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải. Gắn kết các hoạt động bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên với ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh môi trường.
Nghị định 59/2007/NĐ-CP về các quy định liên quan đến vấn đề quản lý chất thải rắn như tất cả mọi người dân, đơn vị, tổ chức, xã hội phải chấp hành thực hiện các quy định quản lý CTR, về việc quy hoạch quản lý CTR, đầu tư quản lý CTR, các yêu cầu trong quá trình phân loại, thu gom, lưu giữ, vận chuyển và xử lý CTR.
Nghị định 147/2007/NĐ-CP của chính phủ: Về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn. Nghị định này quy định về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn; mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn.
Với những kết quả đã đạt được trong thời gian qua cho thấy các chính sách thường xuyên được điều chỉnh nhằm quản lý hiệu quả trong môi trường luôn biến động. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, như: Một số chính sách được ban hành thiếu cơ chế triển khai cũng như hướng dẫn cụ thể dẫn đến việc triển khai không hiệu quả hoặc không phù hợp với thực tế. Ngoài ra, hiện nay các văn bản quy phạm pháp luật quy định về một số vấn đề then chốt đối với quản lý rác thải như nhân lực, trình độ, hướng dẫn kỹ thuật,… vẫn còn thiếu, làm ảnh hưởng đến các hoạt động, khó khăn khi triển khai đặc biệt là đối với các chất độc hại.
1.4.2. Tổ chức bộ máy thực hiện chính sách
Bộ máy quản lý rác thải sinh hoạt gồm các cấp lãnh đạo, UBND huyện chỉ đạo tổ chức thực hiện cùng các tổ vệ sinh môi trường, tổ trưởng tổ dân phố thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thu gom và xử lý chất thải sinh hoạt,
tăng cường tuyên truyền giáo dục, động viên, khuyến khích nhân dân thực hiện công tác thu gom và phân loại rác thải.
Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến công tác quản lý RTSH. Năng lực của tổ VSMT bao gồm nguồn nhân lực, cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho công tác quản lý rác thải. Tùy vào từng địa bàn và khối lượng rác thải phát sinh mà đòi hỏi năng lực của tổ VSMT phải phù hợp, đảm bảo cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải để tình hình môi trường trên địa bàn luôn được sạch sẽ (Văn Hữu Tập, 2014).
1.4.3. Nguồn lực thực hiện chính sách
Để thực hiện chính sách cần đảm bảo các điều kiện về nguồn lực, như: nguồn nhân lực, nguồn lực vật chất,… Trong đó, nguồn lực tài chính được xem là một trong những điều kiện quan trọng.
Nguồn lực tài chính giữ vai trò quyết định tới sự thành công hay thất bại đối với mọi hoạt động. Đối với công tác quản lý RTSH thì nguồn lực tài chính bao gồm mức đầu tư kinh phí cho hoạt động quản lý rác thải, mức chi trả của hộ cho việc thu gom rác thải và mức tiền, lương được nhận của công nhân VSMT. Tất cả các nguồn lực trên phải thu chi hiệu quả thì mới đảm bảo cho công tác quản lý rác thải hoạt động tốt (Văn Hữu Tập, 2014).
Mức thu phí vệ sinh cũng sẽ ảnh hưởng đến công tác quản lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn. Nếu mức thu phí không hợp lý, công tác quản lý rác thải sinh hoạt lại không đạt được như người dân mong muốn sẽ gây nên bức xúc, gặp nhiều sự phản ảnh. Người dân sử dụng dịch vụ nhưng dịch vụ lại không thể đáp ứng yêu cầu trong khi mức phí lại có thể quá cao hay quá thấp mà không phù hợp với người dân. Những mức phí này cần được chia ra hoặc phân loại trước khi áp dụng với người dân.
Quản lý RTSH cần phải có sự góp sức chung của cả cộng đồng, để đảm bảo điều đó cần phải tập trung vào một số nội dung: Về cơ chế, chính sách; Về tổ chức, quản lý; Kinh phí cho công tác quản lý thu gom RTSH; Về công nghệ, kỹ thuật; Huy động sự tham gia của cộng đồng trong quản lý RTSH. Nhất là đẩy mạnh xã hội hóa, tạo cơ chế ưu đãi thu hút các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước tham gia
vào thực hiện quản lý rác thải sinh hoạt; qua đó, sẽ giảm gánh nặng cho ngân sách, đồng thời, đảm bảo nguồn lực để thực hiện đồng bộ.
1.4.4. Sự tham gia của người dân
Nhận thức của người dân
Nhận thức của người dân về môi trường giữ vai trò quan trọng. Khi người dân trực tiếp tham gia vào bảo vệ môi trường thì mới thực sự ý thức được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong công tác quản lý bảo vệ môi trường. Các kết quả nghiên cứu đã nhận định: Mặc dù, nhận thức của người dân đã được cải thiện; đã nhận thức được hậu quả của rác thải đối với tình hình ô nhiễm môi trường nhưng để thực hiện tốt còn gặp nhiều thách thức. Ý thức của người dân về đổ rác đúng nơi quy định và ý thức tham gia thu gom của người dân còn chưa cao. Vẫn còn tình trạng vứt rác bừa bãi xuống ao hồ, sông ngòi, đường phố,… làm ô nhiễm nguồn đất, nước, không khí quanh chúng ta.
Nhiều người còn nghiễm nhiên cho rằng họ đóng phí môi trường hàng tháng cho công nhân VSMT để họ đi thu gom rác thải thì họ có quyền vứt rác bừa bãi; mà không nghĩ rằng việc vứt rác đúng nơi quy định là trách nhiệm của mỗi người để bảo vệ môi trường sống. Vì vậy, nhà nước và chính quyền địa phương cần thắt chặt hơn và xử lý nghiêm khắc đối với những người có hành vi vi phạm để tạo điều kiện cho công tác thu gom và xử lý rác thải đạt hiệu quả.
Mức sống người dân
Mức thu nhập của người dân cũng gây ảnh hưởng đến việc gia tăng lượng rác thải sinh hoạt. Khi thu nhập của người dân tăng lên thì nhu cầu tiêu dùng của cũng tăng lên. Khi nhu cầu tiêu dùng tăng thì thành phần rác thải sinh hoạt càng đa dạng và phong phú như: túi nilon, hộp nhựa, cao su, giấy,…. Ảnh hưởng rất lớn đến tình hình ô nhiễm môi trường.
1.5. Kinh nghiệm thực tiễn
1.5.1. Kinh nghiệm về quản lý rác thải sinh hoạt trên thế giới
1.5.1.1. Kinh nghiệm Singapore
Singapore là một nước đô thị hoá 100% và cũng được coi là một trong những đô thị sạch nhất trên thế giới. Để làm được việc này, Singapore đã chú trọng đầu tư cho công tác thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải, đồng thời xây dựng một hệ thống pháp luật nghiêm khắc làm tiền đề cho quá trình xử lý rác thải tốt hơn. Rác
22
thải ở Singapore được thu gom và phân loại bằng túi nilon. Các chất thải có thể tái chế được đưa về các nhà máy tái chế lại, còn các chất thải khác được đưa về nhà máy để thiêu huỷ.
Ở Singapore có hai thành phần tham gia chính vào đầu tư cho thu gom và xử lý rác thải là: tổ chức thuộc Bộ Khoa học công nghệ và môi trường chủ yếu thu gom rác thải sinh hoạt từ các khu vực dân cư và các công ty; và hơn 300 công ty tư nhân của Singapore chuyên thu gom rác thải công nghiệp và thương mại. Tất cả các công ty đều được cấp giấy phép hoạt động và chịu sự giám sát, kiểm tra trực tiếp của Bộ khoa học công nghệ và môi trường.
Ngoài ra các hộ dân và các công ty ở Singapore được khuyến khích tự nguyện thu gom và xử lý rác thải để có thể giảm được chi phí. Bộ Khoa học công nghệ và môi trường quy định cụ thể phí thu gom và vận chuyển rác thải cho các hộ dân và các công ty. Chẳng hạn, đối với các hộ dân, thu gom rác trực tiếp tại nhà phải trả phí 17 đôla Singapore/tháng, thu gom rác gián tiếp tại các khu dân cư thì phải trả 7 đôla Singapore/tháng (Thùy Phương, 2007).
1.5.1.2. Kinh nghiệm Nhật Bản
Theo số liệu của Cục Y tế và Môi sinh Nhật Bản thì hàng năm quốc đảo này thải ra khoảng 450 triệu tấn (không tính rác thải phóng xạ) trong đó: rác công nghiệp chiếm 397 tấn; rác thông thường 52,2 tấn; rác gia đình 957 nghìn tấn. Trong tổng số trên 36% là tái chế được. Số còn lại được xử lý bằng cách đốt hoặc chôn tại các nhà máy xử lý rác.
Ý thức được vấn đề này, người dân Nhật rất coi trọng bảo vệ môi trường, đặc biệt là vấn đề xử lý rác thải nên đã ban bố luật: “Xúc tiến sử dụng những tài nguyên tái chế” từ năm 1992, góp phần làm tăng các sản phẩm tái chế. Sau đó, luật “Xúc tiến thu gom, phân loại, tái chế các loại bao bì” được thông qua năm 1997, đã nâng cao hiệu quả sử dụng những sản phẩm tái chế bằng cách định rò trách nhiệm của các bên liên quan.
Về thu gom chất thải rắn sinh hoạt, các hộ gia đình được yêu cầu phân chia rác thành 3 loại: Rác hữu cơ dễ phân hủy, rác khó tái chế nhưng có thể cháy và rác có thể tái chế. Rác hữu cơ được thu gom hàng ngày để đưa đến nhà máy sản xuất phân compost; loại rác khó tái chế, hoặc hiệu quả tái chế không cao, nhưng cháy được sẽ đưa đến nhà máy đốt rác thu hồi năng lượng; rác có thể tái chế thì được
23
đưa các nhà máy tái chế. Các loại rác này được yêu cầu đựng riêng trong những túi có màu sắc khác nhau và các hộ gia đình phải tự mang ra điểm tập kết rác của cụm dân cư vào giờ quy định, dưới sự giám sát của đại diện cụm dân cư. Công ty vệ sinh thành phố sẽ cho ô tô đến đem các túi rác đó đi. Nếu gia đình nào không phân loại rác, để lẫn lộn vào một túi thì ban giám sát sẽ báo lại với Công ty và ngay hôm sau gia đình đó sẽ bị công ty vệ sinh gửi giấy báo đến phạt tiền. Với các loại rác cồng kềnh như tivi, tủ lạnh, máy giặt,... thì quy định vào ngày 15 hàng tháng đem đặt trước cổng đợi ô tô đến chở đi, không được tuỳ tiện bỏ những thứ đó ở hè phố.
Sau khi thu gom rác vào nơi quy định, công ty vệ sinh đưa loại rác cháy được vào lò đốt để tận dụng nguồn năng lượng cho máy phát điện. Rác không cháy được cho vào máy ép nhỏ rồi đem chôn sâu trong lòng đất. Cách xử lý rác thải như vậy vừa tận dụng được rác vừa chống được ô nhiễm môi trường. Túi đựng rác là do các gia đình bỏ tiền mua ở cửa hàng.
1.5.1.3. Kinh nghiệm California
Những nhà quản lý rác thải cung cấp đến từng hộ gia đình nhiều thùng rác khác nhau. Kế tiếp rác sẽ được thu gom, vận chuyển, xử lý hoặc tái chế, rác được thu gom 3 lần/tuần với chi phí phải trả là 16,39USD/thùng. Nếu có những phát sinh khác như: khối lượng rác thải gia tăng hay các xe chở rác phải phục vụ tận sâu trong các tòa nhà lớn, giá phải trả sẽ tăng thêm 4,92 USD/thùng. Phí thu gom rác được tính dựa trên khối lượng rác, kích thước rác, theo cách này có thể hạn chế được đáng kể lượng rác phát sinh. Tất cả chất thải rắn được chuyển đến bãi rác với giá 32,38USD/tấn. Để giảm giá thành thu gom rác, thành phố cho phép nhiều đơn vị cũng đấu thầu việc thu gom và chuyên chở rác (Trần Hiếu Nhuệ và nhóm tác giả, 2011).
1.5.1.4. Kinh nghiệm Đan Mạch
Các chính quyền địa phương chịu trách nhiệm thu gom và xử lý chất thải. Luật của Đan Mạch cấm đốt những chất thải có thể tái chế được. Các địa phương có thể đổ chất thải có thể tái chế được ở những trung tâm tái chế, mà không phải trả lệ phí. Tuy nhiên, họ sẽ bị phạt nặng nếu đưa chất thải có thể tái chế được vào lò đốt. Tại nhà máy Vestforbraending ở Copenhagen, nhà máy xử lý chất thải kiểu mới lớn nhất của Đan Mạch, xe tải chở chất thải phải dừng lại ở trạm cân xe trước khi vào nhà máy đổ rác. Rác được kiểm tra ngẫu nhiên để phát hiện chất thải có thể tái chế được và những người vi phạm bị phạt rất nặng. Morten Slotved, thị trưởng