nhận hiện thực. Nói chung, đó là cái hiên ngang của một tâm hồn chỉ biết thờ có tự do và chân lí” [10,251]. Nguyễn Lộc chứng minh thơ Cao Bá Quát phê phán quan lại phong kiến, cảm thương nỗi thống khổ của dân, mong muốn đổi thay xã hội. Ông khẳng định: “Cao Bá Quát là một người rất có ý thức về thời cuộc, và có cái nhìn khá nhạy bén đối với thời cuộc lúc bấy giờ” [77,363]. Nguyễn Huệ Chi từ việc “Tìm hiểu nhân sinh quan tích cực trong thơ Cao Bá Quát”, “Tiếp cận nghệ thuật đối với hai chủ đề độc đáo trong thơ Cao Bá Quát”,…đã kết luận: “chỉ một việc dám nói toạc lên tình trạng lạc hậu của học thuật nước nhà cũng chứng tỏ Cao Bá Quát có cái nhìn sáng suốt và có thái độ dũng cảm như thế nào” [11,70]. Nói chung, đây cũng là ý kiến đánh giá khá thống nhất của nhiều tác giả khác (Lê Trí Viễn, Bùi Đức Tịnh, Vĩnh Sính, Trần Nho Thìn…).
Theo quan niệm của chúng tôi, nội dung trên trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát quả là có mới so với văn chương giai đoạn trước, nhưng với các tác giả cùng thời, sự phản ánh hiện thực xã hội của Cao Bá Quát nằm trong quan niệm sáng tác chung của văn chương thời kì này.
Điểm khác lạ, mới mẻ của Cao Bá Quát so với các tác giả đương thời chính là sự nhìn nhận thế giới phương Tây để rồi nhận thấy tình trạng lạc hậu của đất nước mình. Các tác giả Nguyễn Tài Thư, Vĩnh Sính, Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp, N.I.Nikulin, Trần Nho Thìn… bàn khá sâu sắc về thơ và tư tưởng của Cao Bá Quát khi ông đi “dương trình hiệu lực”. Vĩnh Sính có bài “Thử tìm hiểu về chuyến đi công vụ ở Hạ Châu của Cao Bá Quát”. Bài viết phân tích mục đích của chuyến đi và ấn tượng về văn minh Tây phương của Cao Bá Quát qua “Hồng mao thuyền hoả ca”, “Hình ảnh người phụ nữ Tây phương”, “Ý thức đồng văn đồng chủng đối với người Trung Quốc”. Từ đó, tác giả kết luận: “qua những bài thơ Cao Bá Quát sáng tác trong thời kì xuất dương và sau khi về nước, ta thấy tác giả không chỉ là một nhà thơ đa tài mà còn là một trí thức mẫn cảm trước thời cuộc” [144,198]. “Trên thực tế, Cao Bá Quát là một trong số ít người Việt Nam đã cảm nhận rất sớm - ngay giữa thập niên 1840 - về mối hiểm hoạ Tây xâm và chế độ khoa cử lỗi thời chỉ dựa trên từ chương và hư văn. Những vấn đề này sẽ được tiếp tục là đề tài nóng bỏng đối với đất nước trong suốt hơn một thế kỉ sau đó”, “Trong mảng thơ văn đi sứ hay đi công cán ở nước ngoài của các sứ thần Việt Nam vào thế kỉ XIX, bài thơ của Cao Bá Quát về người phụ nữ Tây phương là một trường hợp rất hiếm hoi và có ý nghĩa bởi lẽ điều này nói lên cá tính phóng khoáng của Cao Bá Quát- không chịu bó mình trong khuôn phép Nho giáo”, “Trong chữ Hán, danh từ “tiên giác” dùng để chỉ
người thấy sớm hơn những người cùng thời các sự kiện chưa xảy ra. Tiên đoán về tiền đồ u ám của đất nước ngay vào giữa thế kỉ XIX, Cao Bá Quát đáng được xếp vào trong số những nhà tiên tri tiên giác rất hiếm hoi ở Việt Nam vào thời điểm đó” [144,198].
Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp có bài “Sứ thần Việt Nam Cao Bá Quát và nhận thức của ông qua chuyến đi công cán “vùng Hạ Châu”. Bài viết khá tường tận và được minh hoạ bằng nhiều dẫn chứng thơ chữ Hán của Cao Bá Quát sáng tác trong và sau thời gian này để chỉ ra sự kết tinh nhận thức mới của Cao Bá Quát về sự lỗi thời của thực tế đất nước, văn minh phương Tây và nguy cơ bị phương Tây thôn tính. Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp đánh giá: “Chuyến đi của ông đã khiến cho ông nhận thức được tính tương đối của sự hiểu biết và coi sự hiểu biết của bản thân mình là hết sức hạn hẹp trước sự bao la của thế giới”, “ông còn đi xa hơn nữa, bởi vì ông muốn công khai xem xét lại ngay cả những nền tảng của sự hiểu biết của các nhà nho. Chắc chắn ở đây có phần quá cường điệu, song ở đây cần phải hiểu rằng đối với Cao Bá Quát thì sự quan sát thế giới đương đại cũng không kém gì việc học tập sách xưa. Nó giúp cho mọi người ý thức được những giới hạn của thế giới bị Hán hoá và sự tồn tại song song của một thế giới bên ngoài mà sự đe doạ đang đến gần từng ngày. Tất cả đều cho thấy Cao Bá Quát hoàn toàn ý thức được về những nguy hiểm mà đất nước ông đang bị đe doạ và cuối cùng sẽ sụp đổ.” [141,846]. N.I.Nikulin - cũng đánh giá Cao Bá Quát từ chuyến đi sứ: “Có thể gọi Cao Bá Quát là người tiền khu của phong trào cải cách nửa sau thế kỉ XIX” [101,217]. Xuân Diệu cũng viết: “Ông là người đầu tiên đưa vào văn học nước nhà hình ảnh người đàn bà Tây Dương”, “và ông cũng là nhà thơ đầu tiên đưa vấn đề da đen da trắng vào thơ” [23,643]. Trần Nho Thìn đánh giá: “Thực tế, tiếp xúc với con người và văn hoá phương Tây, cho dù trên mảnh đất thuộc địa của họ, xác định thành ngữ “trăm nghe không bằng một thấy” [175,8]. Mặt khác, những gì Cao Bá Quát thể hiện trong thơ viết khi đi dương trình hiệu lực lại cho thấy tầm tư tưởng của riêng ông mà nhiều sứ thần không có được”, “Đó là sự sòng phẳng trong tư duy của một con người dám nghĩ một cách mới về cái mới, dám thừa nhận sự ưu việt của kĩ thuật Tây phương” [175;10].
Về phần phản ánh những nỗi thống khổ của con người, điểm mới của Cao Bá Quát được Trần Thị Băng Thanh phát hiện. Nhà nghiên cứu từ sự phân tích bài Đạo phùng ngạ phu đã kết luận: “Đạo phùng ngạ phu một mặt phản ánh một khía cạnh hiện thực xã hội đương thời - sự bế tắc của tầng lớp nho sĩ - trí thức, nạn đói nghèo, thất nghiệp và cuộc sống đầy may rủi, bất trắc - một mặt thể hiện đặc sắc của ngòi bút Cao Bá Quát. Cách
nhìn cuộc sống của thi sĩ họ Cao là cái nhìn xác thực, có dáng vẻ “khách quan”, lệnh sắc, tinh tế của lí trí, có suy tư, phân tích”. “Và nếu như trong các tác gia thời trung đại có một ai mà cách nhìn, cách quan sát thể hiện con người, cuộc sống đã có những nét gần gũi với hiện đại thì phải kể đến Cao Bá Quát. Điều đó cũng góp phần làm nên sức sống lâu bền của thơ ông.” [163;87].
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ chữ Hán Cao Bá Quát - Những điểm mới về nội dung và nghệ thuật - 1
- Thơ chữ Hán Cao Bá Quát - Những điểm mới về nội dung và nghệ thuật - 2
- Nghiên Cứu Tác Giả Trong Loại Hình Tác Giả Nhà Nho
- Văn Hoá Dân Gian Và Trào Lưu Tư Tưởng Nhân Văn Chủ Nghĩa
- Con Người Được Tiếp Xúc Với Văn Minh Phương Tây Qua Chuyến Đi “Dương Trình Hiệu Lực” Ở Hạ Châu
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
Bên cạnh những nội dung trên, nhiều nhà nghiên cứu còn đề cập đến nội dung tình cảm với thiên nhiên, với bạn bè, gia đình… của Cao Bá Quát. Các tác giả đều nhằm hướng tới khẳng định: khác với các giai thoại đều có khuynh hướng chứng tỏ Cao Bá Quát là người ngông nghênh, tự phụ, thực tế ông là người rất mềm yếu, ngập tràn tình cảm. Cao Bá Quát kết giao nhiều, ông yêu thương chân thành mẹ già, con nhỏ, vợ hiền. Ông yêu thiên nhiên, “thường thích cảnh rộng lớn”...
Tuy nhiên, đề cập đến phương diện tình cảm của Cao Bá Quát, các tác giả mới chỉ dựng lên chân dung con người cá nhân Cao Bá Quát đằm thắm, chân thành, mà chưa có kết luận về sự mới lạ của Cao Bá Quát trong tiến trình văn học dân tộc.
Nói chung, qua thơ chữ Hán, Cao Bá Quát được tất cả các học giả đánh giá là một trí thức mẫn cảm với thời cuộc. Điều này đã được tác giả Nguyễn Hữu Sơn khẳng định: “Ông sống với lí tưởng chung của Nho giáo nhưng cá tính con người cá nhân trong ông lại luôn luôn li tâm, luôn tỏ thái độ hoài nghi, luôn vượt lên bộc lộ xúc cảm riêng tư, luôn phá cách để tự khẳng định mình. Cũng có thể coi ông là đứa con ngỗ nghịch của chế độ phong kiến đương thời” [145,484], “Cao Bá Quát đã trở thành một hiện tượng lịch sử, hiện thân cho sự dự cảm yêu cầu một cuộc canh tân và là mầm triệu báo hiệu cho sự ra đời những tiếng nói canh tân quyết liệt của một thế hệ nối tiếp ngay sau đó” [145,494].
1.1.3.2. Nghiên cứu những điểm mới về nghệ thuật
Vấn đề nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát cũng được nhiều tác giả quan tâm. Các tác giả đã chỉ ra đặc điểm cơ bản của phong cách thơ chữ Hán Cao Bá Quát: hào sảng, lãng mạn, vượt ra ngoài quy tắc luật lệ nghiêm ngặt của lối văn thơ trường ốc. Tác giả Nguyễn Tài Thư nhận định: “Thơ ca Cao Bá Quát đã hình thành một phong cách mới mẻ ít thấy trong lịch sử cũng như đương thời” [181,331]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc viết: Cao Bá Quát “chịu ảnh hưởng sâu sắc phong cách Lí Bạch” [77,387]… Ông Ngô Văn Phú đánh giá: “thơ Cao Bá Quát thoát ra hùng khí”, “thơ Cao là của Cao mà trong Cao có cả chất Lí Bạch, chất Đỗ Phủ, chất Lí Thương Ẩn, Đỗ Mục của thơ Đường”
[113,70]. Nhà thơ, nhà phê bình Xuân Diệu nhận xét: “thơ Chu Thần có cái hơi chất hào sảng, dịch rồi mà vẫn còn giữ được”, “Cao có những tứ đột ngột kì thú” [23,658]. Giáo sư Vũ Khiêu khẳng định: “Khi cái văn hứng đã tung bay, ngòi bút dưới tay Cao Bá Quát nó muốn được ngang dọc tuỳ lòng, không chịu tự giam ở trong những khuôn khổ chật hẹp (…), ngòi bút ấy, chỉ hợp để dùng viết những văn chương tự do, chứ nếu đem vào trường thi để viết văn cử nghiệp, e rằng ít khi tránh khỏi những điều bất như ý” [57,126]…
Với cảm nhận chung như vậy, nhiều tác giả đã chỉ ra những khía cạnh cụ thể trong sự đổi mới nghệ thuật thơ chữ Hán của Cao Bá Quát từ thể loại cho đến đặt câu, gieo vần, sử dụng bút pháp tự sự, kết hợp tự sự với lãng mạn….
Tác giả Thuần Phong khi viết về “Cao Bá Quát và Cao Bá Nhạ” một cách khái quát có đề cập đến nghệ thuật thơ Cao Bá Quát trên các phương diện: văn pháp, tả cảnh, tả người, tả tình. Ông viết: “trong những bài thơ ngũ ngôn và thất ngôn, như bài “Phó Nam cung xuất giao môn biệt chư đệ tử, Đạo phùng ngạ phu, Quá Dục Thuý sơn, Hoành sơn vọng hải ca, ông tự do đặt thanh, gieo vần, hạn số tiếng, định số câu, không chịu tuân theo niêm luật Đường thi” [112,326 - 327].
Tác giả Nguyễn Lộc nói: “Cao Bá Quát còn là một nhà thơ trữ tình với bút pháp đặc sắc (…) Thơ Cao Bá Quát cảm xúc dồi dào, đồng thời lại có nhiều chất suy nghĩ (...). Thông thường nhà thơ ít khi bó hẹp cảm xúc trong giới hạn cụ thể của đối tượng phản ánh hay miêu tả mà có xu hướng mở rộng, hoặc nâng cao do sự liên tưởng từ một hiện tượng này đến một hiện tượng khác, từ một hiện tượng thiên nhiên đến một hiện tượng xã hội, của con người hay từ một đối tượng cụ thể đến một nhận thức có tính phổ biến, khái quát.” [77,383 - 384].
Nguyễn Tài Thư quan tâm đến sự liên tưởng của Cao Bá Quát: “Hình thức diễn ra trong thơ Cao Bá Quát thường là liên tưởng tương đồng, tức là liên tưởng mà ở đó các cảm xúc nối tiếp nhau cùng một tính chất, cảm xúc trước là nguồn, cảm xúc sau là sự lắng đọng, giữa cảm xúc trước và cảm xúc sau là sự tương hỗ, làm cho tình cảm thêm thấm đượm” [181,348].
Đáng kể nhất là sự phát hiện về bút pháp tự sự khi viết về hiện thực của Cao Bá Quát. Nguyễn Lộc viết: “Trong các bài miêu tả những cảnh khổ của con người, hay những bài viết về quê hương Phú Thị của ông, ngòi bút của Cao Bá Quát lại có tính chất
hiện thực. Ở đây, nhà thơ không sử dụng lối hư cấu có tính chất phóng đại, không dùng những ẩn dụ, hoán dụ, mà sử dụng nhiều chi tiết chân thực, gợi cảm. Trong những bài viết về con người đau khổ, để đảm bảo tính chất khách quan trong việc thể hiện, Cao Bá Quát thường cho nhân vật tự nói lên cảnh ngộ của họ” [77,388]. Nguyễn Huệ Chi từ việc phân tích chủ đề những con người khốn khổ trong thơ Cao Bá Quát cũng đã khẳng định: “Thơ ông có những cách tân táo bạo, không còn là loại thơ “kỉ sự” của thế kỉ XVIII mà đã chuyển sang một giai đoạn mới, kết hợp tự sự với đối thoại cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng” [14, 457]. Tác giả Nguyễn Ngọc Quận nhận định: “Điểm độc đáo của Cao Bá Quát là ông thường xuất hiện trong thơ với tư cách là người trần thuật, và điểm nhìn trần thuật của ông cũng thường dịch chuyển linh động”, “chất tự sự trong thơ Cao Bá Quát như một dấu hiệu sự cách tân trong thơ, tạo điều kiện cho thơ hướng đến những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng, là điều nhận thấy được”, “chất tự sự như là một trong những dấu hiệu khá đặc trưng trong thơ Cao Bá Quát góp phần làm rõ hơn cá tính sáng tạo của nhà thơ” [130,171]…
Cùng với yếu tố tự sự này, bút pháp cụ thể hoá cũng đã được tác giả Thuần Phong phát hiện: “Một ngón văn đặc biệt của Cao Bá Quát là phép cụ thể hoá, làm cho câu văn linh hoạt phi thường” [112,327], Nguyễn Lộc nhận thấy: “Trong những bài viết về quê hương, nhà thơ trực tiếp miêu tả, thì ông cũng miêu tả một cách tỉ mỉ, chi tiết [77,390].
Từ tự sự, dùng lối cụ thể, tác giả Vũ Khiêu khái quát: “Thơ Cao Bá Quát dù tả cảnh hay tả tình đều có những xúc động chân thành, nhiều lúc có những nét rất sinh động và cụ thể của chủ nghĩa hiện thực” [57,35].
Một phương diện nữa trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát là sự kết hợp tả thực và lãng mạn. Nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Thư kết luận: “Cảnh đối với Cao Bá Quát là hiện thực khách quan với tính chất xác định và thuộc tính thẩm mĩ của nó, là đối tượng cảm xúc của nhà thơ; để tái tạo được cảnh đó trong thơ, ông đã dùng các bút pháp tả thực, miêu tả và tự sự; song để nói rõ được tình cảm của mình với cảnh, ông đã sử dụng các yếu tố lãng mạn biểu hiện, trữ tình và phát huy trên cơ sở của tả thực, miêu tả và tự sự. Do đó, thơ ông là sự thống nhất giữa cảnh và tình, giữa thế giới khách quan và nội tâm của nhà thơ, làm thành một sức quyến rũ đặc biệt” [181,345]. Tác giả Nguyễn Lộc viết: “Thơ Cao Bá Quát thường có hình ảnh độc đáo, tứ thơ bay bổng, khoáng đạt. Ông hay nhân cách hoá những hiện tượng thiên nhiên, coi thiên nhiên là rộng lớn, là tri âm tri kỉ. Qua những bài thơ viết về thiên nhiên của ông thường thấy thế đứng của nhà thơ rất cao,
và tầm mắt của ông nhìn xa vòi vọi”, “Thơ cao Bá Quát viết về hiện thực khách quan nhiều khi cũng là viết về con người cá nhân của mình. Trong một số bài thơ của ông, hiện thực chỉ là phương tiện để nhà thơ tự thể hiện. Do đó, Cao Bá Quát có tính cách của một nhà thơ lãng mạn hơn là một nhà thơ hiện thực”, “ảnh hưởng Lí Bạch”. “Hình tượng thơ của Cao Bá Quát thường có tính chất phóng đại kiểu lãng mạn chủ nghĩa” [77,387].
Theo hướng khác với các tác giả trên, từ những câu hỏi tu từ, những bài thơ viết về cảnh chùa và đề cập đến tư tưởng Phật giáo trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát, tác giả Nguyễn Hữu Sơn đã chứng minh thơ Cao Bá Quát nặng chất suy tưởng... Ở thơ Đường luật, câu hỏi thường đặt ở câu chẵn (sau câu lẻ) nhằm khơi gợi, nêu vấn đề. “Vậy mà ở thơ Cao Bá Quát, đa phần các câu hỏi lại đặt ở vị trí câu lẻ, tức là nêu câu hỏi trước rồi mới đoán định, dẫn giải vấn đề”, “Thơ văn Cao Bá Quát chất nặng suy tư, suy tưởng và những trăn trở về cuộc sống, về cõi nhân gian, về kiếp con người” [145,484], “có thể nói ở hoàn cảnh nào, gặp điều gì Cao Bá Quát cũng đặt ra câu hỏi, trao đổi, luận bàn, đặt lại vấn đề” [145,491]. Nguyễn Hữu Sơn cũng khẳng định: “có cả một dòng thơ du kí đã xuất hiện trong thơ Cao Bá Quát. Qua những chuyến đi, những điều tai nghe mắt thấy, ông đã nâng thơ mình lên những tầm cao những chiêm nghiệm, suy tưởng, nghiền ngẫm về cuộc thế chứ không chỉ đơn thuần là những vần thơ xướng hoạ, đề vịnh quen thuộc nữa” [145, 503].
Nguyễn Thị Kim Châu viết về “Không gian “Đường đời” và sự thể hiện nhận thức về con người phi lí trong thơ Cao Bá Quát”. Tác giả chứng minh, thơ Cao Bá Quát có sự ám ảnh khắc khoải về sự phi lí và kết luận: “Sự bế tắc của đường thế lộ gian nan, sự vô vọng của công việc tiến lên rồi lại lùi lại trên con đường cát rõ ràng là cách thể hiện nhận thức về sự tồn tại đầy phi lí của con người cá nhân trong cái xã hội triều Nguyễn vốn cũng đầy rẫy những điều phi lí” [9,175].
Từ những quan niệm và phong cách trên, các nhà nghiên cứu cũng khẳng định, vì thế mà Cao Bá Quát cũng có sự lựa chọn thể thơ thích hợp. Tác giả Nguyễn Lộc nhận định: “So với các nhà thơ khác, Cao Bá Quát là người sử dụng khá nhiều loại thơ cổ thể trường thiên. Đối với ông, thể tài này tương đối tự do và có dung lượng lớn, thích hợp với những tứ thơ hào mại, sảng khoái. Nhưng nhà thơ cũng sử dụng nhiều thể thơ Đường luật. Trong trường hợp này ta thấy nhiều khi một đề tài ông phải làm đến năm ba bài thơ Đường luật. Đó cũng là một biểu hiện nữa về sự phong phú, dồi dào trong cảm xúc của nhà thơ” [77,383]…
Nói chung, các tác giả đã nhận thấy Cao Bá Quát có những điểm mới táo bạo về nghệ thuật: có bút pháp kì vĩ khác thường, có chất tự sự, suy tưởng...
1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài
1.2.1. Lí thuyết liên văn bản
Lí thuyết liên văn bản được gợi ý từ chủ nghĩa đối thoại của nhà lí luận văn học Nga M. Bakhtin, và được phát triển bởi nhiều người: Kristeva, Bloom, Miller, Genette, Riffater… Từ khi ra đời, lí thuyết liên văn bản đã làm thay đổi hệ hình nghiên cứu văn học, làm nảy sinh những cách tiếp cận văn học mới. Trong luận án này, chúng tôi lấy quan niệm về đối thoại của lí thuyết này làm cơ sở lí thuyết của đề tài.
Về đặc tính đối thoại của văn bản, các nhà tư tưởng của lí thuyết liên văn bản quan niệm: Từ trong bản chất, lời nói mang tính đối thoại, giao tiếp đối thoại chính là môi trường đích thực của đời sống ngôn ngữ. Từ những phát ngôn đơn giản của đời sống cho đến những tác phẩm thông thái của khoa học hoặc nghệ thuật của văn học, không phát ngôn nào tồn tại một mình, cô lập mà dường như luôn có mối quan hệ giữa văn cảnh của mình với văn cảnh người. Do đó, với tư cách là một kiểu lời nói, tác phẩm văn học tất yếu có quan hệ đối thoại với những tác phẩm khác ra đời trước đó và trong tương lai, nó lại trở thành đối tượng cho những tác phẩm ra đời sau đối thoại. Đây là bản chất đối thoại của ngôn ngữ và tồn tại xã hội.
Tiếp cận liên văn bản xem sự ra đời của văn bản là một hiện tượng quan hệ, một quá trình kết nối, tương tác, đối thoại của văn bản trong mạng lưới diễn ngôn xã hội. Văn bản có những mối quan hệ liên văn bản trong mạng lưới ở nhiều cấp độ, từ vi mô đến vĩ mô: từ ngữ, các thủ pháp nghệ thuật, hình tượng, điển tích, điển cố, thể loại… Bất kì một văn bản nào cũng có thể trở thành chất liệu của một văn bản khác ra đời sau nó, bất cứ một văn bản nào cũng được giả thiết là sự đối thoại với nhiều văn bản khác nhau. Thừa nhận tính liên văn bản là thừa nhận rằng tác phẩm văn học nào cũng được tạo dựng từ những hệ thống, những truyền thống đã được thiết lập bởi các tác phẩm văn học trước đó; mỗi tác phẩm đều có những quan hệ, kết nối, đối thoại và liên thuộc với những tác phẩm văn học khác. Nói cách khác, quan niệm của lí thuyết liên văn bản là mọi sáng tác đều có sự lặp lại, lấy lại, mượn lại ý tưởng, ngôn từ, kết cấu, cốt truyện… của các nhà văn có trước rồi biến đổi đi, cấu tạo lại để làm ra cái mới. Tiếp cận liên văn bản đòi hỏi người nghiên cứu đưa văn bản vào mạng lưới văn bản xã hội, diễn ngôn ý thức hệ và diễn ngôn
tập thể. Có nghĩa là, muốn hiểu tác phẩm cần phải so sánh đối chiếu, phân tích nhiều mối quan hệ với vô vàn văn bản khác.
Cao Bá Quát đứng trước truyền thống hàng nghìn năm của văn học dân tộc. Ông vừa tiếp thu các tinh hoa của văn học nước nhà và văn học Trung Quốc vừa bước đầu bứt phá, “đối thoại” với truyền thống và đương thời, tạo nên những đổi mới. Đặt thơ chữ Hán Cao Bá Quát trong tiến trình văn học dân tộc, luận án sử dụng phương pháp so sánh nhằm tìm ra sự đối thoại của Cao Bá Quát với truyền thống và đương thời để từ đó chỉ ra những đóng góp mới của ông.
1.2.2. Lí thuyết nghiên cứu văn học sử về tác giả.
Nghiên cứu văn học sử là nghiên cứu văn học quá khứ. “Thông qua việc tái hiện diện mạo cá biệt những hiện tượng văn học cụ thể trong quá trình phát triển lịch sử, lịch sử văn học phải lí giải, làm sáng tỏ bản chất cũng như quy luật vận động của các hiện tượng ấy, tìm hiểu ý nghĩa của chúng đối với đời sống xã hội, xác định xem chúng có đóng góp gì mới về tư tưởng nghệ thuật” [38,11]. Nghiên cứu văn học sử có nhiệm vụ nghiên cứu quy luật sinh thành và phát triển của các hiện tượng và quá trình văn học diễn ra trong những điều kiện xã hội - lịch sử nhất định trên nhiều phương diện: tác phẩm, tác giả, thể loại, trào lưu, giai đoạn, tiến trình văn học… Luận án này chủ yếu vận dụng lí thuyết nghiên cứu văn học sử về tác giả.
Là người sáng tạo ra các giá trị văn học mới trong sự kết hợp với sự sáng tạo độc đáo của cá nhân, tác giả văn học là một đơn vị, một điểm nhìn, một bộ phận hợp thành quá trình văn học, là một gương mặt không thể thay thế tạo nên diện mạo chung của một thời kỳ hoặc một thời đại văn học. Về tác giả Cao Bá Quát, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu trên những bình diện sau:
1.2.2.1. Nghiên cứu tác giả Cao Bá Quát trong mối tương quan với thời đại, gia đình, cuộc đời - con người tác giả.
Thời đại bao gồm các yếu tố về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa tư tưởng. Các đặc điểm tình hình lịch sử, xã hội nhà Nguyễn đầu thế kỷ XIX trong bối cảnh khu vực và thế giới cho thấy sự tác động nhiều mặt của hoàn cảnh, môi trường đến tư tưởng, tâm hồn Cao Bá Quát tạo tiền đề cho sự đổi mới thơ ca của ông. Những phương diện về văn hoá văn học chứng tỏ những thành tựu mà Cao Bá Quát có được một phần là nhờ tiếp nối được sự vận động của văn hoá, văn học và không khí chấn hưng văn hoá Bắc Hà