nhanh chóng. Giờ hắn có xe @ đi vè vè, mắt đeo kính đen vếch lên trời chẳng thèm chào ai. Hơn thế hắn còn đưa ca-ve về nhà để chúng khiêu khích ông Hưởng- bố Cường đến mức ông nhồi máu cơ tim chết ngay trên giường... Từng sự việc, chi tiết trong tác phẩm đều mang ý nghĩa châm biếm, mỉa mai sâu sắc loại người vì lợi mà bất chấp cả luân thường đạo lý, cả lương tâm. Cùng với Cường, rất nhiều gia đình ở xóm Chùa Ông cũng mong muốn được đổi đời. Họ bất chấp mọi mối quan hệ, bất chấp mọi nghĩa tình, sẵn sàng gây ra những cuộc tranh chấp đất đai nhằm hưởng lợi (Đất xóm Chùa). “Con cả lão Tự Nghệch chém vỡ đầu thằng thứ hai, tranh nửa thước đất bên cạnh con đường cao tốc vô hình. Bốn nhà vẫn chung ngõ đi bỗng om sòm đánh nhau chia bôi đường biên giới. Bà cụ Lăng kiện con rể, đòi lại cái chuồng trâu đã cho con gái làm hồi môn từ hai chục năm trước...” Toàn những hiện thực cười ra nước mắt. Giọng điệu trần thuật của nhà văn ngỡ như bình thản, lạnh lùng mà ẩn chứa bao chua xót. Còn đâu xóm làng bình yên với nghĩa tình sâu nặng của cha con, anh em, xóm giềng thủa trước. Tất cả đã bị cái lợi trước mắt cùng đồng tiền che khuất. Để cứu gia đình thoát nghèo, người ta sẵn sàng làm những việc mất hết lương tâm, vi phạm nghiêm trọng đạo đức con người là cho con xuất ngoại mà thực chất là bán con để trục lợi. Ghê tởm hơn, họ còn cho con gái đến cơ sở y khoa để “vá trinh” tân trang lại nhằm lòe bịp những lão già ngoại quốc lắm tiền, dù biết rằng nếu họ phát hiện ra họ sẽ bán vào nhà thổ hoặc vùi dậo cho đến chết (Trinh tiết xóm Chùa). Cũng vì “cơn sốt” lấy chồng ngoại, con trai đưa ca-ve, con hít về tận làng hoạt động nên cả Xóm Chùa có đến hai phần ba thanh niên khám nghiệm dương tính với con hít. Hiện thực đau xót này là hiện thực chung của nhiều vùng ven đô nước ta trước tốc độ đô thị hóa đến mức chóng mặt của nền kinh tế thị trường.
Giọng châm biếm, phê phán của Đoàn Lê không chỉ nhằm vào những tệ nạn xã hội, những kẻ cơ hội trục lợi mà còn nhằm cả vào những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như nạn tham nhũng, lợi dụng chức quyền để thao túng đất đai, trọng hình thức hơn nội dung, coi trọng vẻ bề ngoài hơn bản chất thực bên trong... Đó là những vấn đề lớn được nhà văn thể hiện trong hai truyện có yếu tố kỳ ảo: Lên Ruồi và Nghĩa địa xóm Chùa. Ở Lên Ruồi, nhà văn kể câu chuyện của một nghệ sỹ nhào lộn đã cống hiến cả cuộc đời cho nghệ thuật, nay vì ly dị vợ không có chỗ ở phải đâm đơn xin xỏ khắp nơi nhưng không được chấp nhận
còn bị biến thành ruồi. Qua giọng kể hài hước, dí dỏm nhà văn khiến bao kẻ quyền chức tham nhũng trong xã hội phải giật mình, bao người thấy xót xa cho cảnh ngộ của mình trong cái thời buổi đất chật người đông, “mật ít ruồi nhiều”.
Dân gian vẫn nói “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người” để nhấn mạnh vai trò của sự thực chất. Nhưng dường như trong xã hội hiện đại, quan niệm đó không còn thực sự được đề cao, vì thế mới nảy sinh căn bệnh chạy theo hình thức, coi trọng hình thức với những biểu hiện bên ngoài hơn là bản chất thực bên trong. Qua giọng kể đầy tính chất bi hài của Đoàn Lê ở truyện ngắnNghĩa địa xóm Chùa, người đọc sẽ thấy rất rõ điều đó. Câu chuyện xoay quanh tình huống nhầm lẫn xác của ông thiếu tướng với một tay thợ điện về hưu- một tình huống hết sức khôi hài để phê phán hiện thực: hiện thực về tiền tài danh vị, thứ bậc trong xã hội. Vì chút tiền lót tay tiêu cực phí, gã canh nhà xác vô lương tâm sẵn sàng làm cuộc tráo đổi lộn sòng gây náo loạn cả đám tang thiếu tướng. Vì chức tước danh vị ông thiếu tướng mà hầu hết những người đến với đám tang chỉ diễu qua, diễn trò cho phải phép, không ai tận mắt ngắm nhìn hình hài người quá cố. Ngay đến cả đến những người ruột thịt: hai bà vợ và một lũ con khăn xô, mũ mấn luôn túc trực bên linh cữu mà cũng không hề nhận ra sự nhầm lẫn nực cười ấy. “Họ mải nhìn vào nỗi đau trong lòng họ, hay mải giữ lễ với ông cả bà lớn đến viếng nên chưa một lần liếc mắt tới tôi?”. Cứ như thế, bằng giọng điệu lúc bình thản, lạnh lùng, khi bất bình chua sót, nhà văn đã nhập thân vào nhân vật tay thợ điện để kể về nỗi oan ức của mình: “Ông thiếu tướng kia ơi, nếu ông hóa ra cái xác vô thừa nhận cũng đừng tiếc rẻ oán trách tôi. Ở đây không ai cần ông, không ai thực sự tha thiết đến ông. Không phải tôi tranh mất vinh hạnh mà chính thực tôi gánh chịu nỗi bất hạnh cho ông đó”. Điểm nhìn trần thuật khi ở nhân vật này, lúc của nhân vật khác, nhà văn đã thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm rất sâu sắc.
Trong nhiều tác phẩm khác, dù giọng điệu chính không phải là mỉa mai, phê phán nhưng đằng sau những bức tranh hiện thực, nhà văn vẫn ngầm thể hiện những ý nghĩa phê phán xã hội, con người rõ nét. Là nhà văn giàu lòng nhân ái, Đoàn Lê luôn có mong muốn qua những trang viết của mình, con người sẽ sống thiện hơn, những hiện tượng tiêu cực trong xã hội sẽ được cải thiện, những nét đẹp nhân bản của con người sẽ được khôi phục. Niềm mong mỏi ấy giúp nhà văn liên tục cống hiến cho người đọc những trang viết giầu ý nghĩa nhân văn.
Giọng điệu trở thành một yếu tố nghệ thuật chi phối rất lớn đến các yếu tố nghệ thuật khác trong tác phẩm. Nó đồng thời cũng là một hiện tượng nghệ thuật được tạo thành từ các yếu tố gắn kết, hô ứng nhau. Trong mỗi sáng tác, Đoàn Lê luôn cố gắng, tìm tòi để tạo ra những giọng điệu riêng không giống ai. Đó thực sự là thách thức lớn với người nghệ sỹ, nhưng chúng ta tin rằng bằng sự khổ công phấn đấu với niềm say mê nghề nghiệp cùng tài năng của bà với văn chương, Đoàn Lê vẫn và sẽ tạo được phong cách nghệ thuật riêng bắt đầu từ giọng điệu nghệ thuật.
PHẦN III. KẾT LUẬN
1. Văn học Việt Nam từ sau 1975 chứng kiến nhiều thay đổi từ thể loại đến quan niệm sáng tác, tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Trong đó truyện ngắn là thể loại gặt hái được nhiều thành công nhất. Sự khởi sắc của thể loại này là minh chứng cho sự phát triển của văn học hiện đại. Có được những thành tựu đó không thể không nhắc đến sự góp mặt của các nhà văn nữ, khi tác phẩm của họ gần như chiếm lĩnh văn đàn. Trong đó, Đoàn Lê được biết đến như một cây bút có phong cách đa dạng và sức sáng tạo tươi mới rất tiêu biểu cho văn học đương đại. Vì vậy tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn lê giúp ta có cái nhìn khái quát hơn về sự phát triển chung của văn học thời kỳ đổi mới.
2. Cảm hứng nghệ thuật của Đoàn Lê bao giờ cũng bắt nguồn từ hiện thực bề bộn của cuộc sống hôm nay. Từ cảm hứng bi kịch đến cảm hứng triết luận, tác phẩm của Đoàn Lê thường đề cập đến những vấn đề nhân sinh. Đó là nỗi đau của những con người bước ra khỏi cuộc chiến với những ám ảnh ghê gớm của chiến tranh. Chuyển sang giai đoạn đất nước hòa bình, nhà văn lại khám phá và thể hiện những bi kịch của bao gia đình, bao số phận trước sức băng cuốn của nền kinh tế thị trường. Cùng với những bi kịch ấy là bi kịch tình yêu, hôn nhân trong những gia đình hiện đại. Đoàn lê đã viết văn bằng tất cả sự nhạy cảm tinh tế của một người phụ nữ từng trải nên những bi kịch mà nhà văn thể hiện qua mỗi trang viết đều chân thực và sâu sắc. Giọng điệu của nhà văn khi viết về những cảm hứng đó khi thì đồng cảm, xót xa chia sẻ, lúc lại mỉa mai, phê phán nhẹ nhàng mà tinh tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Vai Trò Của Người Kể Chuyện Với Sự Phát Triển Của Cốt Truyện
- Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê - 13
- Ngôn Ngữ Giầu Chất Hiện Thực Đời Thường:
- Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê - 16
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
3. Con người xuất hiện trong văn học thời kỳ đổi mới là con người đời tư, đời thường với những khuôn mặt khác nhau tạo nên sự phong phú, sinh động trong thế giới nhân vật mà văn học đề cập đến. Số phận cá nhân được văn học giai đoạn này quan tâm nhiều hơn, đặc biệt là đời sống tinh thần của con người hiện đại vốn phức tạp và khó nắm bắt. Nhân vật văn học được nhắc đến bằng các đại từ xưng hô: “tôi”, “hắn”, “nó”, “lão”...nhiều hơn là danh từ chung mà văn học giai đoạn trước lựa chọn để khắc họa những hình tượng nhân vật mang sắc thái biểu tượng cho cả một thế hệ, một dân tộc ở một giai đoạn lịch sử cụ thể. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Đoàn Lê dù là truyện ngắn hay tiểu thuyết đều thể hiện đầy đủ quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Con
người là một thế giới bí ẩn, một tiểu vũ trụ với đời sống tâm lý vô cùng phức tạp mà các nhà văn cần khám phá và thể hiện.
Con người trong sáng tác của Đoàn Lê thường mang bi kịch và cảm xúc chân thực của con người hiện đại. Bi kịch vì tình yêu không thành, bi kịch vì sự đổ vỡ gia đình, bi kịch vì cuộc sống mưu sinh...Bi kịch ấy bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa hoàn cảnh và tính cách cũng như ước mơ, khát vọng của con người. Những mâu thuẫn, xung đột trong thế giới nhân vật mà nhà văn đề cập đến chứa đựng ý nghĩa điển hình và có tính xã hội sâu sắc. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Đoàn Lê khá phong phú: có kiểu nhân vật cô đơn, có nhân vật tự ý thức, cũng có kiểu nhân vật ảo...Mỗi kiểu nhân vật được thể hiện bằng những phương thức khác nhau nhưng đều góp phần thể hiện đầy đủ quan niệm nghệ thuật về con người của Đoàn Lê. Đặc biệt là việc khắc họa nhân vật ảo đã giúp nhà văn mở rộng bình diện khám phá con người, khám phá hiện thực cuộc sống một cách độc đáo nhưng vẫn chân thực và đầy đủ. Khám phá thế giới nhân vật của Đoàn Lê người đọc có thể hình dung về dòng chảy của cuộc sống hiện đại cũng như tâm lý, tính cách và số phận con người trong cuộc sống hôm nay.
4. Thế giới nghệ thuật của truyện ngắn Đoàn Lê cũng có những nét độc đáo riêng, tạo nên một phong cách nghệ thuật có nhiều dấu ấn trên Văn đàn văn học Việt Nam hiện đại. Từ nghệ thuật tổ chức cốt truyện, tạo tình huống, tổ chức ngôn ngữ và cách lựa chọn sắp xếp không gian, thời gian hay các thủ pháp nghệ thuật thường sử dụng trong sáng tác của nhà văn đều có những cách tân mới mẻ bên cạnh những yếu tố kế thừa văn học truyền thống. Về nghệ thuật tổ chức cốt truyện, Đoàn Lê là nhà văn ở giữa làn ranh giới giữa cốt truyện truyền thống và cốt truyện hiện đại. Trong truyện ngắn của bà bên cạnh những truyện có cốt truyện rõ ràng, nhà văn còn sáng tạo loại truyện tâm lý không có cốt truyện, chủ yếu hướng vào thế giới tinh thần của nhân vật với những thông điệp mang ý nghĩa triết luận sâu sắc. Những tình huống được nhà văn lựa chọn và tổ chức gắn với tư tưởng nghệ thuật của bà trước những vấn đề của cuộc sống, là mấu chốt để triển khai cốt truyện và xây dựng nhân vật. Ngôn ngữ Đoàn Lê là ngôn ngữ gần với đời thường. Nhân vật của Đoàn Lê thường được đặt trong không gian cụ thể, thời gian đa chiều: quá khứ, hiện tại, cái chung- cái riêng. Qua đó cảm quan về cuộc sống, tư tưởng nghệ thuật cùng những nét riêng về phong cách của nhà văn được bộc lộ.
5. Qua việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Đoàn Lê, chúng tôi hy vọng đã phác thảo những đặc trưng nghệ thuật của một cây bút nữ tiêu biểu của văn học giai đoạn đổi mới. Qua việc tìm hiểu này, chúng tôi hy vọng sẽ giúp bạn đọc có thể mở rộng bình diện khám phá tác phẩm văn học, đặc biệt là khám phá những truyện ngắn hiện đại vốn được xem là khó hiểu, khó nắm bắt. Việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Đoàn Lê cũng chính là đã bước đầu tìm hiểu những đặc điểm chung của truyện ngắn đương đại. Mặc dù chưa thực đầy đủ, nhưng chúng tôi vẫn hy vọng những khám phá về nội dung và nghệ thuật trên đây sẽ giúp bạn đọc dễ dàng tiếp cận hơn với sáng tác của nhà văn này, cũng như những sáng tác của các nhà văn nữ cùng thời. Tuy nhiên, những cách hiểu chưa đầy đủ là điều không tránh khỏi khi thực hiện đề tài nghiên cứu này, vì vậy những đóng góp ý kiến của bạn đọc là điều vô cùng quý báu để chúng tôi- những người mới bước chân vào con đường nghiên cứu có thêm những khích lệ, động viên để tiếp tục con đường đầy khó khăn trước mặt.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Ngọc Anh ( 2003)- Đã đến lúc những người đàn bà nổi loạn - Báo Nông thôn ngày nay, ngày 10/07
2 Vũ Tuấn Anh (1995)- Đổi mới văn học vì sự phát triển – Tạp chí Văn hóa số4.
3 Vũ Anh Tuấn ( 1996)- Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện thể loại - Tạp chí Văn hóa - Số 9.
4 Lại Nguyên Ân (2003)- 150 thuật ngữ văn học - NXB ĐHQG Hà Nội
5 Nguyễn Thị Bình (2001)- Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau 1975 - Tạp chí Văn học số 3
6 Nguyễn Thị Bình (1996)- Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 - Luận án PTS khoa học Ngữ văn – ĐHSPHN
7 M,Bakhtin (1992) -Lý luận và thi pháp tiểu thuyết - NXBHà Nội
8 M,Bakhtin (1993) - Những vấn đề thi pháp Đônxtôievxky- NXB Giáo dục.
9 Phạm Quốc Ca (2002) - Ý thức cá nhân trong thơ trữ tình sau 1975 - Văn học số 12.
10 Nguyễn Minh Châu (1987) - Hãy đọc lời ai điếu cho một nền văn học minh họa - Văn nghệ, 12.
11 Nguyễn Minh Châu (1994)- Trang giấy trước đèn - NXB Khoa học xã hội & Nhân văn.
12 Trần Ngọc Dung (1993)- Ba phong cách truyện ngắn: Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao - Luận văn PTS Khoa học Ngữ văn – ĐHSPHN.
13 Nguyễn Lân Dũng (2006) – Ai cứu xóm Chùa- Báo văn nghệ số 4
14 Đặng Anh Đào (1991) - Một hiện tượng mới trong hình thức kể truyện hôm nay - Tạp chí văn học số 6.
15 Đặng Anh Đào (1993) - Hình thức mới trong truyện ngắn hôm nay - Tạp chí khoa học văn học số 3.
16 Trần Thanh Đạm (1989)- Nghĩ về một xu thế đổi mới trong đời sống văn trương hiện nay - Báo văn nghệ số 1.
17 Hà Minh Đức (1992) - Loại thể văn học - NXB Giáo dục.
18 Hà Minh Đức (chủ biên) (1995)- Lý luận văn học - NXB Hà Nội.
19 Trần Thanh Địch (1998) - Tìm hiểu truyện ngắn- NXB tác phẩm mới.
20 Phùng Hữu Hải - Yếu tổ kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiẹn đại từ sau năm 1975 - www.evan.com,vn.
21 Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1997) - Từ điển thuật ngữ văn học - NXB ĐHQG Hà Nội.
22 Hoàng Thị Hồng Hà (2003) - Truyện ngắn nữ và xu hướng tự nghiệm - Tạp chí Nghề báo - Văn nghệ Công an số 10.
23 Nguyễn Hà (2000)- Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Việt Nam nửa sau thập niên 80 - Tạp chí Văn học số 3.
24 Nguyễn Thái Hòa ( 2000)- Những vấn đề thi pháp của truyện - NXB Giáo dục.
25 Tô Hoài (1997) - Sổ tay viết văn - NXB tác phẩm mới Hà Nội.
26 Vũ Thị Hồng (1991) - Gặp gỡ một số nhà văn nữ - Tạp chí tác phẩm mới số 10.
27 Hoàng Ngọc Hiến (1991)- Thi pháp của truyện - Báo Văn nghệ số 31.
28 Đỗ Đức Hiểu (2000) - Thi pháp học hiện đại - NXB Hội nhà văn.
29 Nguyễn Thanh Hùng (2000) - Chiến tranh đi qua tình người ở lại - Tạp chí Văn học số 3.
Lê Thị Hường (1995) - Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam
30 giai đoạn sau 1975 - Luận án TS khoa học Ngữ văn - ĐH KHXH&NV - ĐHQG Hà Nội.
31 Lê Thị Hường (1994) - Quan niệm về con người cô đơn trong truyện ngắn hiện nay - Tạp chí Văn học số 2.
32 Lê Thị Hường (1995) - Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay - Tạp chí văn học số 4.
33 M.B.Khrapchenkô (1978) - Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học - NXB Tác phẩm mới.
34 M.B.Khrapchenkô (2002)- Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học - NXB ĐH Quốc gia Hà Nội.
35 Phùng Ngoc Kiếm (1998) - Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945- 1975 - NXB ĐHQG Hà Nội.
36 Lê Minh Khuê ( 2003) - Truyện ngắn chọn lọc - NXB Giáo dục.
37 Chu Lai (2007)- Ăn mày dĩ vãng - NXB Hà Nội.
38 Tôn Phương Lan ( 2001)- Một vài suy nghĩ về con người trong văn học thời kỳ đổi mới - Tạp chí Văn học số 9.
39 Nguyễn Văn Long ( 2003) - Văn học Việt Nam trong thời đại mới - NXB Giáo dục.
40 Nguyễn Văn Lưu (1995) - Luận chiến văn chương - NXB Văn học.
41 Nguyễn Đăng Mạnh ( 1994) - Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn NXB Giáo dục.
42 Nguyễn Đăng Mạnh ( 2003) - Khái quát Văn học Việt Nam trong thời đại mới - NXB Giáo dục.