Việc cắt giảm thuế NK mà Trung Quốc đưa ra là rất đáng kể và sẽ kéo theo một sự giảm mức thuế trung bình từ 13,3% trong năm 2001 xuống còn 6,8% vào cuối kỳ thực hiện năm 2005. Thực ra việc cắt giảm này là nhỏ so với mức 27% mà Trung Quốc đạt được trong giai đoạn 1992-2001.
b. Hạn ngạch và hạn ngạch thuế quan (TRQ):
Đối với hàng công nghiệp, Trung Quốc cam kết đến năm 2005 sẽ bãi bỏ hết hạn ngạch NK. Đặc biệt, sẽ bỏ ngay hạn ngạch đối với các mặt hàng như thiết bị y tế, máy bay, rượu bia, phân bón...
TQ cam kết tự do hóa việc mua các nông sản thiết yếu như lúa mỳ, ngô, gạo, bông, và dầu đậu tương qua hình thức hạn ngạch thuế quan (TRQ) - có nghĩa là áp dụng mức thuế rất thấp (1%) cho lượng NK chưa qua hạn ngạch. Đặc biệt, một phần của hạn ngạch được giành cho các công ty tư nhân và hạn ngạch không dùng hết sẽ được tái phân phối cho những người sử dụng cuối cùng muốn NK mặt hàng đó.
Trung Quốc cam kết loại bỏ dần các biện pháp phi thuế quan khác trái với qui định của WTO đối với hầu hết các mặt hàng kể từ ngày 1-1-2005.
2.3. Minh bạch và có khả năng tiên đoán
Nguyên tắc minh bạch hóa chế độ thương mại của WTO có liên quan đến các quy định chung về các mặt như các biện pháp bù đắp và bổ trợ, chống bán phá giá và bảo hộ. TQ không những cam kết tuân thủ các quy định của WTO về minh bạch như công bố và thông báo các luật và chính sách thương mại mà còn thông qua một số cam kết cụ thể. Nước này cam kết áp dụng một thể chế thương mại nhất quán, bộ máy tư pháp độc lập, và xây dựng một cơ chế để các bên có thể phản ánh những vấn đề về bảo hộ tại địa phương lên chính quyền trung ương. TQ cũng ràng buộc toàn bộ biểu thuế quan với hầu hết mức thuế ràng buộc thấp hơn tại thời điểm cam kết và nâng cao hơn nữa tính dễ tiên đoán bằng việc cam kết không tăng thuế suất.. Thông qua việc xóa bỏ dần những hạn chế về thương quyền đối với tất cả các sản phẩm (trừ hàng hóa nằm trong danh mục thương mại nhà nước) và cho phép các nhà cung cấp trong nước và nước ngoài tham gia vào dịch vụ phân phối và bán lẻ, TQ đã đẩy mạnh cải cách để tăng hơn mức độ minh bạch.2 TQ cũng cam kết tuân thủ các Hiệp
2 Về vấn đề này, VN cam kết ngay từ khi gia nhập sẽ công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, UBTV quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân và đăng công khai các VBPL trên. Thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi tối thiểu là 60 ngày.
định đang có hiệu lực của WTO như TRIPs, TRIMs và TBT. Có thể tổng kết các luật tiêu biểu được ban hành sau khi Trung Quốc gia nhập WTO thông qua bảng sau:
Bảng 5: Các luật tiêu biểu được Trung Quốc ban hành sau khi gia nhập WTO
Ban hành | |
Cuối 2002 | Luật chi tiêu chính phủ (nhằm tăng cường tính minh bạch, xóa bỏ nạn tham nhũng và thủ tiêu các hàng rào bảo hộ trong nước) |
3 - 2003 | Quy định tạm thời về minh bạch hóa trong quản lý thương mại |
3 - 2004 | Bản dự thảo xin ý kiến đóng góp từ các doanh nghiệp nước ngoài có liên quan về Luật Ngoại thương sửa đổi |
Cuối 2003 | Đưa ra dự thảo Qui định quản lý ĐTNN trong lĩnh vực thương mại và lấy ý kiến đóng góp của các bên nước ngoài có liên quan và tiến hành sửa đổi các điều khoản bất hợp lý |
4 - 2004 | Luật Ngoại thương sửa đổi và Qui định về quản lý ĐTNN trong lĩnh vực thương mại |
Có thể bạn quan tâm!
- Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam - 1
- Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam - 2
- Tác Động Của Viêc Tq Gia Nhập Wto Đối Với Thương Mại Quốc Tế:
- Tác Động Đến Thương Mại Trung Quốc – Hoa Kỳ:
- Tác Động Của Việc Trung Quốc Gia Nhập Wto Đối Với Xuất Khẩu Hàng Hóa Của Việt Nam Sang Thị Trường Trung Quốc:
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng hợp
2.4. Không bóp méo thương mại
Theo qui định của WTO, các chính phủ có quyền ban hành các điều luật áp thuế chống phá giá và thuế đối kháng và áp dụng các biện pháp bảo hộ (gia tăng các loại thuế quan hoặc xây dựng các hàng rào hạn chế khối lượng nhặp khẩu) để bảo hộ các ngành công nghiệp nội địa. Nhiều thành viên WTO đã thu lợi từ quyền này, một số nước khác thì sử dụng tương đối nhiều các công cụ bảo hộ, đặc biệt áp đặt các loại thuế chống phá giá với hàng hóa bán phá giá.
Tuy nhiên, mục tiêu cơ bản của WTO là thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà XK. Do đó, nguyên tắc của WTO về không bóp méo thương mại bao gồm những nguyên tắc chung trong các lĩnh vực như trợ cấp và đối kháng, chống bán phá giá và tự vệ. Lý thuyết kinh tế và minh chứng của nhiều nước cho thấy gia tăng cạnh tranh có tác động tích cực đối với nền kinh tế vì nó buộc các ngành sản xuất trong nước phải hợp lý hóa sản xuất. Về mặt này, Trung Quốc thậm chí còn đưa ra những cam kết mạnh hơn mức yêu cầu so với những nước đã là thành viên WTO. Ví dụ, cam kết xóa bỏ hết các hình thức hỗ trợ XK không phù hợp với luật lệ WTO; giới hạn mức trợ cấp nông nghiệp dưới mức 8,5% sản lượng nông nghiệp so với mức 3,5% hiện hành và mức 10% áp dụng cho các nước đang phát triển khác. Tuy nhiên, cam kết này của Trung Quốc có thể đặt ra tiền lệ gây khó khăn hơn cho các nước đang đàm phán gia nhập WTO trong đó có Việt Nam.
a. Chống bán phá giá và thuế đối kháng:
Về qui chế kinh tế thị trường như các nước phương Tây yêu cầu đối với các nước đang phát triển trong quá trình hội nhập, theo tờ “Thương báo” của TQ khó khăn của TQ trong vấn đề quy chế kinh tế thị trường có nguyên nhân sâu xa là xuất phát từ cam kết của TQ khi gia nhập WTO. Trong Nghị định thư gia nhập WTO của TQ điều khoản thứ 15 đồng ý cho các nước thành viên khác của WTO được tiếp tục đánh giá việc bán phá giá của Trung Quốc theo tiêu chuẩn “Trung Quốc là một nền kinh tế phi thị trường” trong vòng 15 năm sau khi gia nhập3. Điều khoản này đã tạo cơ hội để nhiều nước hoặc khu vực khác lấy đó làm con bài để đòi hỏi nhiều lợi ích kinh tế và chính trị hơn cho họ. Còn đối với nước cam kết thì vấn đề này liên quan đến uy tín quốc gia nên dù có thiếu công bằng đến đâu vẫn phải tuân thủ. Chính điều đó đã khiến các nước Âu-Mỹ đưa ra những tiêu chuẩn về kinh tế thị trường rất tùy tiện, thậm chí không liên quan gì đến những qui định về bán phá giá và những biện pháp đảm bảo của WTO..Tuy nhiên, trong một “nỗ lực” nhằm giảm bớt thiệt thòi kép, TQ cũng thể hiện rõ quan điểm và không để cho các nước khác tùy tiện phán xét. Với xu thế đi lên của nền kinh tế, nhất là ưu thế của một thị trường lớn, TQ hiện có rất nhiều con bài trong tay để mặc cả. Tháng 9-2004, ASEAN đã thừa nhận qui chế kinh tế thị trường (market economy status-MES) cho Trung Quốc. Sau chuyến thăm 4 nước Châu Mỹ La tinh của ông Hồ Cẩm Đào tháng 11-2004, Bazil, Chile và Argentina đều công nhận qui chế MES cho Trung Quốc...
b. Quyền tự vệ (safeguards):
Trung Quốc cam kết cho phép các nước thành viên khác sử dụng điều khoản tự vệ một cách tương đối rộng rãi (ví dụ theo tiêu chuẩn “gây xáo động thị trường” chứ không phải “gây thiệt hại nghiêm trọng” như điều khoản thông thường trong WTO) trong một thời gian dài là 12 năm nhằm hạn chế hàng nhập từ Trung Quốc nếu như hàng nhập này gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Trong quá trình thương thuyết, các nước thành viên đã đòi hỏi được quyền áp đặt một số biện pháp ngăn ngừa. Điều 16 Nghị định thư gia nhập WTO của Trung Quốc cho phép các thành viên WTO áp dụng các biện pháp tự vệ (safeguards) nhắm vào một hay một vài mặt hàng của Trung Quốc (trong đó có Dệt may) nếu thị trường bị xáo trộn cho đến tháng 12-2013. Các nước thành viên WTO cũng có thể đơn
3 Việt Nam chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm ( không muộn hơn 31/12/2018). Chế độ "phi thị trường" nói trên chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với hàng XK của Việt Nam
phương tái lập các hạn ngạch cho hàng Dệt may nhập từ Trung Quốc mà không cần thông báo lên WTO cho đến 31-12-2008 (thay vì 2004 như các nước khác), nếu “các luồng NK ấy cản trở sự phát triển bình thường của mậu dịch dệt may”.
2.5. Đối xử ưu đãi cho các nước đang phát triển
WTO đưa ra các quy định về đối xử đặc biệt và khác biệt (S&D) cho các nước đang và kém phát triển thành viên (ví dụ qui định giai đoạn chuyển đổi dài hơn cho các nước đang phát triển và kém phát triển trong một số Hiệp định) cho phép các nước phát triển thành viên thoát khỏi điều khoản MFN và giành cho các nước đang và kém phát triển đối xử S&D. Đối xử ưu đãi đặc biệt gây ra nhiều tranh cãi trong cuộc đàm phán.
Vào giai đoạn đầu đàm phán gia nhập WTO, Trung Quốc bị ép buộc đàm phán với tư cách là một nước phát triển do quy mô và thành tựu về tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong những năm gần đây đã khiến các nước phát triển e ngại khi chấp nhận cho nước này chế đọ giành cho nước đang phát triển. Tuy nhiên, Trung Quốc đã thành công trong việc chuyển đổi vị thế đàm phán. Chính điều này đã giúp Trung Quốc không bị “thua thiệt” nhiều trong quá trình đàm phán và được hưởng những ưu đãi và nhân nhượng nhất định giành cho các nước đang phát triển thành viên. Cụ thể, Trung Quốc được hưởng ân hạn thực hiện các cam kết trong WTO như dỡ bỏ dần hạn ngạch và giấy phép, tự do hóa dần việc cho phép các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường. Ngoài ra, Trung Quốc còn được hưởng thuế suất GSP của một số nước, giúp Trung Quốc tăng được khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng trên thị trường thế giới, đặc biệt là so với các nước đang phát triển trong việc XK các sản phẩm tương đồng.
Xét trên tiềm năng cạnh tranh của ngành công nghiệp nhẹ Trung Quốc thì Trung Quốc không cần thiết có sự đối xử ưu đãi về mặt thuế quan mà cần được giảm bớt những rào cản phi thuế quan của các nước phát triển. Trung Quốc chỉ có thể đạt được điều này qua cải cách thương mại đa phương nhằm giảm các rào cản phi thuế ở các nước phát triển đối với các sản phẩm công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động như dệt may và giầy dép.
Để đảm bảo Trung Quốc thi hành các cam kết đã hứa hẹn và trấn an dư luận trong nước, các thành viên WTO đã buộc Trung Quốc sau khi gia nhập phải tham gia vào một kỳ “sát hạch”đặc biệt hàng năm xem nước này có thực thi các cam kết
của mình và chấp hành nghiêm chỉnh các quy tắc của WTO hay không thông qua Cơ chế xét duyệt quá độ Trung Quốc (China Transitional Review Mechanism - TRM). Cũng theo Hiệp định thư gia nhập WTO của Trung Quốc, hàng năm Trung Quốc sẽ phải giải trình tất cả những gì đã làm để thực hiện cam kết và trả lời câu hỏi của các thành viên khác trong nhiều cuộc họp ở các ủy ban. Kết quả sẽ đệ trình lên Đại hội đồng WTO, là cơ quan tối cao của tổ chức (gồm tất cả các thành viên). Việc xét duyệt sẽ tiến hành mỗi năm, trong 8 năm, lần cuối vào năm thứ 10 hay sớm hơn tùy theo quyết định của Đại hội đồng.
3. Những thuận lợi và thách thức của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với nền kinh tế Trung Quốc
3.1. Những thuận lợi:
Tại sao phải gia nhập WTO? Vào thì sẽ được gì, mất gì? Và ai, ngành nào, khu vực nào sẽ được hưởng lợi, ai sẽ phải chịu thiệt thòi? Đây là bài toán cơ bản đặt ra cho mỗi nước khi đệ đơn xin gia nhập WTO và cũng là một sự đánh cuộc của chính họ. Các nghiên cứu gần đây về tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với tăng trưởng kinh tế của nước này đều hết sức khả quan, đặc biệt là về triển vọng trong dài hạn.Trong nửa thập niên trở lại đây, đà tăng trưởng XK và NK có giao động nhưng tăng trưởng GDP của Trung Quốc luôn ổn định ở mức 7-8%. Trung tâm nghiên cứu phát triển của Hội đồng nhà nước Trung Quốc ước tính việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ tăng tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc Trung bình 0,5%/năm và tác động của việc Trung Quốc giảm thuế quan khi gia nhập WTO cho thấy GDP sẽ tăng lên 1%/năm và XK tăng 24%, NK tăng 18%4.
Bên cạnh những lợi ích chủ yếu mà các quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển thu được từ việc kí kết các Hiệp định của WTO như: Không bị phân biệt đối xử trong buôn bán với các thành viên còn lại của tổ chức; Có quyền tham gia vào quá trình xây dựng các quyết định của WTO cũng như tham gia vào các phiên đàm phán đa phương trong tương lai; Thúc đẩy Chính phủ hoạt động hiệu quả hơn...Có thể đánh giá tổng quát những thuận lợi mà TQ có được khi trở thành thành viên chính thức của WTO. Đó là: tự thay đổi chính mình và nhân lên sức mạnh.
a. Thị trường quốc tế mở rộng, được hưởng quy chế tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia
4 Li shangtong và ZhuiFan, Impact of WTO Accession on China’s Economy, Trung tâm nghiên cứu và phát triển Bắc Kinh, 2000.
Điều này giúp cho hàng hóa và dịch vụ Trung Quốc được tham gia vào thị trường của 149 nước thành viên khác của WTO trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, không phân biệt đối xử. Thêm nữa, Trung Quốc sẽ không phải chịu sự rà soát hàng năm về việc ban hành quy chế MFN của Quốc hội Hoa Kỳ mà nghiễm nhiên được áp dụng quy chế này. Điều này hết sức quan trọng bởi lẽ nếu không được hưởng MFN thì hàng NK vào Hoa Kỳ từ Trung Quốc sẽ phải chịu thuế quan cao hơn đáng kể (có mặt hàng lên tới 10 lần) so với những mặt hàng được hưởng MFN. Theo số liệu thống kê, năm 2002, tổng KNXNK của Trung Quốc đạt 620,8 tỷ USD, tăng 21,8% so với năm 2001. Trong đó, XK đạt 325,6 tỷ USD, tăng 22,3%; NK đạt 295,2 tỷ USD, tăng 21,2%, cao hơn hẳn mức 4% của thương mại thế giới năm đó. Vị trí XK của TQ trên thế giới đã từ thứ 6 năm 2001 tăng lên thứ 5 năm 2002.
b. Tăng cường vị thế của Trung Quốc trong thương mại quốc tế
Việc Trung Quốc gia nhập WTO là một sự xác nhận của quốc tế về một nước Trung Quốc với tư cách là một cường quốc kinh tế đang lên, giúp Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các nguyên tắc thương mại mới của WTO.
Ngoài ra, thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại (DSM) của WTO, Trung Quốc có thể bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mình trong các tranh chấp thương mại với các cường quốc kinh tế lớn. Sau khi gia nhập WTO, tỷ lệ hầu kiện và thắng kiện chống bán phá giá các sản phẩm XK cùng các biện pháp bảo đảm của Trung Quốc đã tăng rõ rệt. Trong vụ kiện bảo hộ gang thép với Hoa Kỳ, vụ án lớn nhất, phức tạp nhất trong lịch sử WTO, lần đầu tiên, Trung Quốc vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và đã thắng kiện; Trong vụ kiện về máy bật lửa của EU, Trung Quốc cũng không phải nộp thuế ... Có thể nói, Trung Quốc đã lợi dụng những quy tắc của WTO để bảo vệ có hiệu quả sự an toàn những ngành nghề trong nước và các ngành sản xuất XK trên thị trường các nước khác.
c. Được hưởng sự đối xử đặc biệt và khác biệt (S&D) dành cho các nước đang phát triển trong WTO:
Mặc dù, Trung Quóc có số thu nhập bình quân đầu người thấp hơn nhiều so với các nước mà WTO xếp vào hàng các nước đang phát triển, nhưng qui mô và mức độ phát triển của nước này khiến cho các nước thành viên chấp nhận đối xử như đối với một nước đang phát triển một cách miễn cưỡng. Theo đó, Trung Quốc được linh hoạt hơn trong việc thực hiện các cam kết của WTO như được bảo lưu
một phần quyền kinh doanh và áp dụng một số hình thức trợ cấp, hỗ trợ về kỹ thuật...Đối với các nền kinh tế đang phát triển trong WTO, việc bảo hộ các ngành còn non trẻ đặc biệt là nông nghiệp có vai trò hết sức quan trọng. Nông nghiệp là vấn đề phức tạp nhất trong quan hệ giữa các thành viên WTO và những vòng đàm phán đa phương của GATT/WTO và dĩ nhiên cũng đóng vai trò then chốt trong quá trình thương thuyết gia nhập WTO của Trung Quốc. Trung Quốc hiện vẫn là một nước nông nghiệp với 800 triệu người sống về nghề nông, chiếm 60% dân số. Chính quyền TQ buộc phải coi trọng vấn đề bảo vệ thu nhập của nông dân. Do đó, trong quá trình đàm phán, Trung Quốc đòi hỏi phải được qui chế nước đang phát triển để được hưởng mức tài trợ cao nhất WTO cho phép, là 10% tổng sản lượng nông sản được tài trợ thay vì mức 5% áp dụng cho các thành viên phát triển và cuối cùng mức cam kết được 2 bên ấn định là 8,5%. Tuy chưa tài trợ nhiều cho nông dân nước mình, nhất là so với ngân sách tài trợ khổng lồ của Hoa Kỳ và EU, Trung Quốc vẫn có một giới hạn thoải mái để có thể tùy nghi sử dụng biện pháp đó bất cứ khi nào cần đến.
d. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
Mọi người đều có chung một nhận định rằng việc Trung Quốc tiếp cận WTO, bằng điều tiết thương mại và nâng cao tính ổn định hầu như chắc chắn sẽ mang lại nhiều ĐTNN hơn nữa cho nước này. FDI thiên về ủng hộ các nước có hoạt động kinh tế vĩ mô ổn định và có mức tăng trưởng cao. Trong hầu hết thập kỉ 90 thế kỷ trước, Trung Quốc đã đạt được cả hai yếu tố này. Các quan chức Trung Quốc cho rằng, sau khi gia nhập WTO, mỗi năm ít nhất sẽ có khoảng 50 tỷ USD ĐTNN đổ vào Trung Quốc và Trung Quốc sẽ là một trong những nước tiếp nhận nhiều vốn ĐTNN nhất thế giới. Trước đây, hầu hết các khoản ĐT đều đổ vào ngành chế tạo phục vụ XK. Nhưng nhờ gia nhập WTO, thị trường nội địa đang mở rộng sang các lĩnh vực như bán lẻ, xe hơi, viễn thông và dịch vụ tài chính...Nhiều mặt hàng của Trung Quốc đang ngày càng có sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường thế giới.
Với tư cách là thành viên WTO, Trung Quốc có thể tiếp cận được 149 thị trường các nước thành viên, cùng với lợi thế về nhân công dồi dào, chăm chỉ...biến Trung Quốc trở thành một cơ sở tốt để đầu tư sản xuất XK. Năm 2003, trung Quốc vượt Hoa Kỳ trở thành nước đứng đàu thế giới về thu hút FDI, với tổng trị giá 53,5 tỷ USD. Tính đến cuối năm 2005, tổng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện khoảng 319
tỷ USD. Chỉ số lòng tin đầu tư (FDI Confidence Index) cao nhất thế giới 2,03 trong khi chỉ số này của Hoa Kỳ là 1,455. Ngày càng nhiều công ty xuyên quốc gia (TNC) điều chỉnh địa bàn đầu tư và mở rộng hoạt động ở Trung Quốc.
e. Thúc đẩy cải cách thể chế và mở cửa thị trường:
Cải cách toàn diện về mặt thể chế, luật pháp, hệ thống ngân hàng, tài chính và đặc biệt là cải cách các doanh nghiệp nhà nước giúp Trung Quốc quản lý nền kinh tế của mình trên cơ sở minh bạch, có khả năng tiên đoán và phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Điều này giúp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao hiệu quả và năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế. Trước khi gia nhập WTO, có nhiều mối lo ngại rằng khi mở cửa thị trường, Trung quốc sẽ trở thành nước nhập siêu do thị trường lớn. Nhưng thực tế cho thấy sản xuất nội địa của Trung Quốc có khả năng điều chỉnh nhanh, đứng vững trong cạnh tranh và đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước trong khi XK tăng vọt... Đạt được kết quả trên là nhờ “môi trường cứng”(cơ sở hạ tầng) và “môi trường mềm”(cơ chế chính sách) trở nên minh bạch, dễ tiên đoán và khuyến khích hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Gia nhập WTO sẽ giúp Trung Quốc tháo gỡ những nút thắt trói buộc nền kinh tế. Các khoản bao cấp giúp đỡ cho các công ty không có khả năng cạnh tranh sẽ bị coi là bất hợp pháp, các ngân hàng bắt buộc phải có những quyết định theo định hướng thị trường, mối quan hệ không lành mạnh giữa các quan chức chính phủ và doanh nghiệp sẽ biến mất...và Trung Quốc sẽ có cơ hội mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia trên thế giới.
Từ cuối năm 1999, gần 30 ban ngành của Quốc vụ viện Trung Quốc đã sửa đổi hơn 2300 pháp luật, pháp quy và quy tắc, điều lệ của các Bộ, ngành; các địa phương Trung Quốc đã xử lý hơn 190.000 quy định mang tính địa phương, những quy tắc và những biện pháp chính sách của các cơ quan địa phương và tùy theo yêu cầu xóa bỏ hoặc sửa đổi các qui định đó... Trong 3 năm sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã ban hành hơn 40 quy định pháp luật liên quan đến các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, giao thông, du lịch, giáo dục...Về cơ bản, đã hình thành hệ thông luật pháp trong lĩnh vực mậu dịch, dịch vụ ngoại thương phù hợp với cơ chế WTO.
Bảng 6: Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Trung Quốc 2000-2005
2000 | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 |
5 A.T.Kearney, FDI Confidence Index 2004