Tác Động Đến Thương Mại Trung Quốc – Hoa Kỳ:


Theo dự báo của WB, vào năm 2020, Trung Quốc sẽ chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch buôn bán thế giới và trở thành quốc gia thương mại lớn thứ 2 thế giới sau Hoa Kỳ. Do đó, thương mại Trung Quốc sẽ rất quan trọng trong việc duy trì nguyên tắc thương mại đa phương quốc tế và ảnh hưởng của Trung Quốc tới các nền kinh tế lớn là không nhỏ.

Bảng 9: Thương mại Trung Quốc với những đối tác chính

Đơn vị: tỷ USD, %



1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

Thế giới

360,0

474,3

509,7

620,8

851,0

1154,5

1365,9

Hoa Kỳ*

94,9

116,4

121,5

195,3

181,8

231,4

285,3

EU (25)

57,9

81

80,5

91,9

132,8

177,4

223,1

Nhật Bản

66,2

97,6

100,2

114,3

113,7

187,2

189,4

ASEAN-6

110,3

144,5

151,6

194,8

261,1

351,3

125,8

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Nguồn: WTO Staticstic 2005, (*)US Department of Commerce

2.1. Tác động đến thương mại Trung Quốc – Hoa Kỳ:

Quan hệ thương mại Trung Quốc – Hoa Kỳ không ngừng phát triển kể từ sau khi 2 nước thiết lấp quan hệ ngoại giao năm 1979. Năm 1999, khi Hoa Kỳ và Trung Quốc ký được hiệp định về việc Trung Quốc gia nhập WTO, cả 2 bên đều cho rằng đây là hiệp định mà cả 2 cùng “thắng lợi”. Các sản phẩm của Hoa Kỳ sẽ tiếp cận tốt hơn với thị trường Trung Quốc trên mọi lĩnh vực như nông nghiệp, viễn thông, ô tô...Trong khi Trung Quốc trở thành nhà cung cấp quan trọng cho thị trường Hoa Kỳ những hàng hóa giá rẻ như đồ chơi, hàng dệt may, nông sản, quần áo, giày dép...

Đối với Hoa Kỳ, việc Trung Quốc gia nhập WTO mang lại nhiều lợi ích. Nếu Hoa Kỳ vẫn muốn tiếp tục tạo ra 20% của cải thế giới chỉ với 4% dân số thế giới thì Hoa Kỳ phải tiếp tục đẩy mạnh buôn bán quốc tế, đặc biệt là với Trung Quốc. Khi trở thành thành viên WTO, Trung Quốc giảm phần lớn các hàng rào thương mại và sẽ tạo ra được những cơ hội kinh doanh mới cho thương nhân Hoa Kỳ ở Trung Quốc. Đồng thời, Hoa Kỳ có thể đưa những tranh chấp thương mại vào khuôn khổ WTO thay vì áp dụng các biện pháp trừng phạt thương mại đơn phương dễ gây ảnh hưởng xấu đến quan hệ giữa 2 nước.

Bảng 10: Thương mại Trung Quốc - Hoa Kỳ (1998 - 2005)

Đơn vị : tỷ USD, %



1998

1999

2000

2001

BQ

2002

2003

2004

2005

BQ

TQ XK

72,1

81.8

100,1

102,3

12,98

125,2

153,4

196,7

243,5

24,43

TQ NK

14,2

13,1

16,3

19,2

11,2

22,1

28,4

34,7

41,8

21,59




CCTM

57,9

68,7

83,8

83,1


123,1

125

162

201,7


Nguồn: US Department of Commerce, Tradestat Express,

http://tse.export.gov/NTDChart.aspx?UniqueURL=xrmrku45xiw50lz1y2zycn55-2006-11-

1-21-55-26

Sau khi Trung Quốc trở thành thành viên WTO, thương mại giữa 2 nước tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao. Đến năm 2004, Trung Quốc đã vượt Mêhicô trở thành nước XK lớn thứ 2 sang thị trường Hoa Kỳ và trở thành đối tác lớn thứ 4 của Hoa Kỳ. Hàng hóa Trung Quốc, đặc biệt là những hàng hóa Trung Quốc có lợi thế so sánh như dệt may, nông sản, da giầy...có giá rẻ, chất lượng tốt nên được nhiều người tiêu dùng Hoa Kỳ ưa chuộng. Tốc độ tăng trưởng XK của Trung Quốc sang Hoa Kỳ đạt bình quân 24,23%/năm trong giai đoạn 2002-2005 trong khi tăng trưởng NK chỉ đạt 21,59% làm cho thâm hụt cán cân thương mại tiếp tục có xu hướng tăng lên. Mức thâm hụt mậu dịch với Trung Quốc của Hoa Kỳ năm 2005 đã lên tới 201,7 tỷ USD, 3 tháng đầu năm 2006 là 47 tỷ USD. Nhưng theo tính toán có gần 70% lợi nhuận trong những món hàng XK từ Trung Quốc vào Hoa Kỳ rơi vào túi các nhà đầu tư nước ngoài trong đó chủ yếu là các nhà đầu tư Hoa Kỳ.

Biểu đồ 4 Thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ giai đoạn 1990 2004 Nguồn OEF Tuy 1

Biểu đồ 4: Thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ giai đoạn 1990 - 2004

Nguồn: OEF

Tuy nhiên, ngược lại Trung Quốc cũng là một thị trường đầu tư và XK quan trọng trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay. Theo hãng Boeing, cứ 1 tỷ USD XK máy bay sang Trung Quốc sẽ tạo ra 11.000 việc làm cho người dân Hoa Kỳ. Một điều dễ nhận thấy hơn là việc Hoa Kỳ cũng là một trong những nước được hưởng lợi từ xu hướng tăng trưởng NK nông sản của Trung Quốc sau khi gia nhập WTO. Theo số liệu từ Cơ quan đại diện thương mại Hoa Kỳ tại Trung Quốc, năm 2004, KNXK nông sản của Hoa Kỳ sang Trung Quốc đạt 5,5 tỷ USD, chiếm 9% tổng KNXK nông sản của Hoa Kỳ, tăng gấp đôi so với năm 2002.Trong đó, Trung Quốc chiếm 34,9% tổng KNXK đậu tương; 1/3 tổng KNXK bông và chiếm 30% tổng KNXK da của Hoa Kỳ. Năm 2005, Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu nông sản lớn thứ tư của Hoa Kỳ.

Như vậy, có thể thấy Hoa Kỳ và Trung Quốc là đối tác thương mại quan trọng của nhau. Cơ cấu XK của Trung Quốc là những mặt hàng mà nước này có lợi thế cạnh tranh so với Hoa Kỳ và ngược lại. Tuy nhiên, thâm hụt mậu dịch với Trung Quốc của Hoa Kỳ tăng liên tục do khả năng


cạnh tranh của hàng hóa TQ ngày càng tăng sau khi Trung Quốc gia nhập WTO và do TQ còn duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định của đồng NDT khiến cho hàng TQ trở cạnh tranh hơn về giá. Các chuyên gia kinh tế dự đoán, sau giai đoạn quá độ gia nhập WTO, với việc cải cách hệ thống luật pháp, giảm các rào cản thuế quan và phi thuế quan, cũng như nhu cầu ngày càng cao của thị trường Trung Quốc thì XK của Hoa Kỳ vào thị trường này sẽ tăng lên và tình trạng thâm hụt thương mại giữa hai nước sẽ được cải thiện.

2.2. Tác động đến quan hệ thương mại Trung Quốc – Nhật Bản:

Ngay từ trước khi Trung Quốc gia nhập WTO, quan hệ thương mại Nhật- Trung đã có những bước phát triển tích cực. Trung Quốc là thị trường lớn đầy tiềm năng của Nhật Bản còn Nhật Bản là nguồn cung cấp vốn, thiết bị máy móc và bán thành phẩm quan trọng của Trung Quốc. Nhật là một trong những nước đầu tiên đầu tư vào Trung Quốc từ những năm 80 thế kỷ trước, tuy nhiên còn dè dặt và không đều. Mãi cho đến khi Trung Quốc gia nhập WTO thì quan hệ buôn bán 2 chiều không ngừng tăng lên. Năm 1997 mới chỉ đạt 63,8 tỷ USD đến năm 2000 con số này đã tăng lên 97,6 tỷ USD (tăng 52,9%). Và chỉ sau 3 năm Trung Quốc gia nhập WTO, kim ngạch buôn bán hai chiều đã đạt 187,2 tỷ USD đưa tỷ trọng của Trung Quốc trong tổng kim ngạch NK của Nhật Bản tăng lên 13,1% trong năm 2004 đưa Trung Quốc trở thành bạn hàng số một của Nhật – một vị trí mà gần 60 năm nay thuộc về Hoa Kỳ.

Bảng 11: Thương mại Trung Quốc – Nhật Bản (1999-2005)

Đơn vị : tỷ USD. %



1999

2000

2001

BQ

2002

2003

2004

2005

BQ

TQ XK

42,9

55,1

57,9

10,50

61,8

75,4

94,3

103,1

15,79

TQ NK

23,3

42,5

42,3

22,0

52,5

72,9

92,9

86,3

20,83

CCTM

19,6

12,6

15,6


9,3

2,5

1,4

16,8


Nguồn : WTO statictics 2005

Một điều dặc biệt là trong khi vai trò của Trung Quốc ngày càng quan trọng với Nhật Bản thì vai trò của Nhật Bản với Trung Quốc ngày càng giảm. Điều này thể hiện ở chỗ: Năm 2004, Trung Quốc thay thế Hoa Kỳ trở thành bạn hàng số một của Nhật Bản, nhưng ngược lại, Hoa Kỳ lại thay thế Nhật Bản trở thành bạn hàng số một của Trung Quốc.

Có thể nói, việc Trung Quốc gia nhập WTO không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Nhật Bản mà còn tác động mạnh tới ngoại thương của Nhật Bản và các nước trong khu vực. Tác động này thể hiện ở hai khía cạnh:

Thứ nhất, hàng Trung Quốc xâm nhập nhanh và mạnh vào thị trường khu vực làm cho thị phần hàng Nhật Bản tại các nước này giảm sút. Các mặt hàng như điện


tử, điện gia dụng, giầy đép...của Trung Quốc ngày càng lấn át hàng hóa Nhật Bản trên thị trường nhiều nước như Việt Nam, Malaysia...Gần đây, giữa 2 nước đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt nhằm tăng thị phần tại thị trường thứ 3 và cũng là để “tranh giành” nguồn cung cấp nguyên liệu và năng lượng phục vụ cho sản xuất XK và tiêu dùng trong nước. Cơ hội cho nền kinh tế Nhật Bản là thị trường XK vì Trung Quốc là thị trường có sức mua khổng lồ và tăng rất nhanh. Do đó, kinh tế Trung Quốc càng bùng nổ thì Nhật Bản càng có lợi nhờ XK sang thị trường này các sản phẩm mới. Ngoài ra, do rất nhiều các sản phẩm XK “made in China” nhưng các bộ phận cấu thành lại “made in Japan”, nên nếu Trung Quốc đẩy mạnh XK thì XK của Nhật Bản cũng tăng theo.

Thứ hai, mặc dù Nhật Bản vốn được coi là một trong những thị trường khó tính nhất trên thế giới, thế nhưng hàng hóa Trung Quốc ngày càng phong phú đa dạng, chất lượng ngày càng được cải thiện...do đó hàng hóa Trung Quốc ngày càng được ưa chuộng hơn so với các nước Đông Nam Á. Trong năm 2002, trong khi NK hàng hóa của Nhật Bản từ Trung Quốc tăng 6,2% so với năm trước thì NK từ hầu hết các nước khác giảm đi, trong đó NK từ Hoa Kỳ giảm 9,3%, từ EU giảm 2,4%, từ Đông á giảm 1,4%6... Điều này, giúp cho các doanh nghiệp có nhiều biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh, và rút lui dần khỏi các sản phẩm gặp sự cạnh tranh về chi phí của Trung Quốc và chuyển sang sản xuất các sản phẩm công nghệ cao hơn.

2.3. Tác động đến quan hệ thương mại Trung Quốc – EU

Việc Trung Quốc gia nhập WTO được đánh giá là có ảnh hưởng tích cực đến quan hệ thương mại 2 bên. Kim ngạch buôn bán song phương tăng liên tục từ 2,44 tỷ USD vào năm 1975 đã tăng lên 80,5 tỷ USD vào năm 2001 và đạt 217,3 tỷ USD vào năm 2005. Tính chung giai đoạn 2000-2005, KN buôn bán giữa Trung Quốc và EU đã tăng gấp đôi, EU trở thành thị trường XK lớn nhất của Trung Quốc. Năm 2005, XK từ EU sang thị trường Trung Quốc cũng tăng hơn 100% so với năm 2000, mức tăng trưởng nhanh nhất trong số các thị trường XK của EU. EU tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc (tổng KNXNK của TQ sang EU chiếm 16,3% tổng KNXNK của TQ) và TQ là đối tác thương mại lớn thứ hai của EU (tổng KN XNK sang TQ chiếm 9,4% tổng KN XNK của EU) .


Bảng 12: Thương mại Trung Quốc – EU

Đơn vị : tỷ USD, %



1999

2000

2001

BQ

2002

2003

2004

2005

BQ

TQ XK

32,1

40,8

44,2

11,25

52,5

78,4

107,3

147,6

35,63


6 JETRO, Ministry of Finance



TQ NK

25,8

31,2

36,3

12,05

39,4

54,4

70,1

75,5

20,78

Cán cân TM

6,3

9,6

7,9

17,3

13,1

24,0

37,2

72,1

74,46

(1)*


8,30


9,51

11,21

12,35

13,44


(2) *

3,42

3,87

4,69

5,00

4,88

(3) *

16,81

15,32

14,99

14,12

12,56

(4) *

16,93

16,45

18,28

18,50

19,29

(1) (2) Tỷ trọng của Trung Quốc trong tổng kim ngạch NK, XK của EU (%)

(3) (4) Tỷ trọng của EU trong tổng kim ngạch NK, XK của Trung Quốc (%)

Nguồn : WTO statictics 2005, *Eurostat

Tỷ trọng của Trung Quốc trong tổng kim ngạch NK của EU đã tăng từ 8,3% năm 2001 lên 13,44% năm 2005 trong khi tỷ trọng của Trung Quốc trong tổng KNXK của EU chỉ tăng từ 3,42% năm 2000 lên 4,75% năm 2005. XK của Trung Quốc sang EU trong 4 năm 2002-2005 tăng bình quân 35,63% gấp hơn 3 lần so với tốc độ tăng bình quân 11,25% trong 3 năm 1999-2001. NK của Trung Quốc từ EU cũng tăng 20,78% trong giai đoạn 2002-2005 so với 12,05% trong giai đoạn 1999- 2001. Tuy nhiên, do tốc độ tăng XK nhanh hơn tốc độ tăng trưởng NK của Trung Quốc từ EU nên thặng dư thương mại của Trung Quốc với EU ngày càng tăng (đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 74,46% trong giai đoạn 1999-2002 so với 17,3% trong giai đoạn 1998-2002).

Cơ cấu hàng XNK giữa Trung Quốc và EU cũng có nhiều thay đổi. Trước đây, Trung Quốc xuất sang EU chủ yếu là hàng sơ cấp (chiếm 50%) như nông lâm sản, hàng dệt, công nghiệp nhẹ và nguyên liệu. Những năm gần đây, sau khi Trung Quốc ttở thành thành viên WTO, tỷ lệ hàng sơ cấp Trung Quốc NK vào EU chỉ chiếm 14%, trong khi tỷ lệ hàng chế tạo (chế phẩm khoáng sản, gang thép, sản phẩm điện cơ, ô tô....) tăng lên 86%. Ngày càng nhiều càng công ty Châu Âu đầu tư vào Trung Quốc để tận dụng nguồn lao động rẻ, tay nghề cao và nguồn nguyên liệu dồi dào... tạo điều kiện sản xuất nhiều sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng Châu Âu. Bên cạnh đó, việc EU kết nạp thêm 10 thành viên mới vào năm 2003 đã tạo thêm nhiều cơ hội cho hàng XK Trung Quốc thâm nhập vào thị trường rộng lớn này. Sau khi 10 nước Trung và Đông Âu trở thành thành viên mới của EU, tổng giá trị hàng hóa NK trong EU tăng xấp xỉ 175 tỷ Euro. Trong đó, nhu cầu NK hàng công nghiệp của một số nước mới gia nhập là rất lớn (CH Sec, BaLan, Slovenia, Estonia cơ cấu hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch NK thường xuyên chiếm 80% tổng KNNK hàng hóa). Cơ cấu mặt hàng XK của EU sang Trung Quốc chủ yếu là máy móc thiết bị (chiếm 2/3 tổng KNXK của EU sang Trung Quốc và chiếm


1/3 tổng KNNK máy móc của Trung Quốc. Thị phần của EU tại Trung Quốc là 16% (tương đương với thị phần tại Nhật Bản và Đông Nam á), thấp hơn so với thị phần của EU tại Mỹ (20%), Ấn Độ (21%) và Brazil (31%).

Biểu đồ 5 XNK từ EU sang Trung Quốc 2001 2005 Nguồn Eurostat statistical regime 4 2

Biểu đồ 5: XNK từ EU sang Trung Quốc (2001-2005)

Nguồn: Eurostat, statistical regime 4. Ngoài ra, theo Hiệp định giữa hai bên về việc Trung Quốc gia nhập WTO, Trung Quốc cam kết mở cửa cho EU 3 lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Về công nghiệp, Trung Quốc cam kết giảm thuế trên 150 loại sản phẩm công nghiệp chủ yếu của EU XK vào thị trường Trung Quốc, cho phép EU tham gia vào

kinh doanh và phát triển các ngành bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán, du lịch...

2.4. Tác động đến quan hệ thương mại Trung Quốc – ASEAN:

Trước khi trở thành thành viên chính thức của WTO, quan hệ thương mại Trung Quốc và ASEAN đã có những tiến bộ đáng kể. Thương mại Trung Quốc – ASEAN đã tăng với tốc độ 20,4% giai đoạn 1991- 2000, trong đó năm 2000 đạt 39,5 tỷ USD, tăng gấp 5 lần so với 7,9 tỷ USD năm 1991. XK của Trung Quốc sang ASEAN tăng từ 4,1 tỷ USD (chiếm 5,7% tổng XK của Trung Quốc) năm 1991 lên 17,3 tỷ USD năm 2000 (chiếm 5,9% trong tổng KNXK của Trung Quốc).

Đầu những năm 90, XK của ASEAN sang Trung Quốc chủ yếu tập trung vào 5 mặt hàng là xăng dầu, gỗ, mỡ động thực vật, máy tính và thiết bị điện tử (chiếm tới 75% thị phần XK của ASEAN sang Trung Quốc). Đến năm 1999, cơ cấu này đã có sự thay đổi theo hướng chuyển dần sang các sản phẩm chế tạo, các mặt hàng trên chỉ còn chiếm 60% trong KNXK của ASEAN sang Trung Quốc. Trong khi đó, các mặt hàng chủ yếu ASEAN NK từ Trung Quốc bao gồm: hàng điện tử, máy tính, xăng dầu, bông và thuốc lá - chiếm gần 40% NK của ASEAN từ Trung Quốc.

Thương mại ASEAN – Trung Quốc đã tăng nhanh kể từ thời điểm Trung Quốc gia nhập WTO với tốc độ tăng trưởng KNXK của Trung Quốc sang ASEAN đạt 22,7% trong giai đoạn 2002 – 2004 so với tốc độ tăng trưởng 12,25% trong giai đoạn 1999-2001 và tốc độ tăng trưởng NK đạt 47,75% so với 14,85% trong các giai


đoạn tương ứng. Từ năm 2003, ASEAN đã chuyển sang đạt thặng dư thương mại trong buôn bán với Trung Quốc do nhu cầu NK nguyên liệu thô, dầu cọ, cao su, hoa quả nhiệt đới ... sang Trung Quốc gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Năm 2005, KNNK hàng hóa từ ASEAN của Trung Quốc đạt 76,97 tỷ USD (chiếm 12% tổng KNNK của Trung Quốc, và XK sang ASEAN 56,92 tỷ USD (chiếm 7,4% tổng KNXK của Trung Quốc).

Hiện nay, do trình độ phát triển của các nước ASEAN khác nhau, nên sự hợp tác kinh tế thương mại giữa các nước ASEAN và Trung Quốc cũng ở mức khác nhau, được chia làm 2 nhóm. Nhóm các nước có trình độ công nghệ lạc hậu, nền kinh tế quy mô nhỏ, có kim ngạch buôn bán với Trung Quốc còn ở mức thấp là nhóm ASEAN-4 (Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanma). Đối với các nước này, Trung Quốc thường xuất siêu trong qưuan hệ thương mại và thường trao đổi hàng hóa ở mức cấp thấp. Trung Quốc NK nguyên vật liệu và XK thành phẩm sang các nước này. Nhóm các nước thứ hai là các nước ASEAN-6 (gồm 6 nước còn lại của ASEAN) có kim ngạch buôn bán với Trung Quốc lớn nhưng tới nay Trung Quốc vẫn xuất siêu sang các nước này. Hai bên thường trao đổi những mặt hàng cao cấp. Trung Quốc NK từ các nước này các sản phẩm như dầu thô, hóa chất, sản phẩm luyện kim còn XK các sản phẩm dệt may và cơ điện.

Có thể nói, cơ hội của ASEAN khi Trung Quốc gia nhập WTO là tăng XK các mật hàng nông sản, thủy sản mà khu vực này có lợi thế do nhu cầu đang lên của thị trường Trung Quốc và do ngay sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc phải giảm thuế NK nông sản còn bình quân là 20% và còn 14,5% sau 3 năm.

Ngược lại, các nước trong khu vực cũng gặp nhiều bất lợi khi Trung Quốc gia nhập WTO. Các mặt hàng XK chủ yếu của nhiều nước như dệt may, giầy dép, đồ chơi...có chất lượng và mẫu mã tương tự như hàng Trung Quốc và đều hướng sang các thị trường Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ...sẽ phải cạnh tranh gay gắt với hàng hóa từ Trung Quốc. Bên cạnh đó, gia nhập WTO sẽ thúc đẩy dòng FDI vào Trung Quốc nhiều hơn do các rào cản thương mại đã được xóa bỏ. Thông qua FDI, nấc thang công nghệ của Trung Quốc sẽ ngày càng được nâng lên. Sức ép cạnh tranh từ Trung Quốc sẽ ngày càng gia tăng không chỉ đối với các nước trong khu vực mà với cả thị trường thế giới nói chung.

Bảng 13: FDI từ Nhật vào TQ và ASEAN trước và sau khi TQ gia nhập WTO


Đơn vị: tỷ USD



2000

2002

Tổng số

FDI từ Nhật

Tổng số

FDI từ Nhật

Việt Nam

2,017

81

1,653

118

ASEAN

34,631

6,807

21,646

3,003

Trung Quốc

62,379

3,680

82,768

5,298

Nguồn: Viện kinh tế thành phố Hồ Chí Minh

Có thể nhận thấy một sự chuyển đổi rõ rệt khi FDI đổ vào Trung Quốc tiếp tục phát triển và lớn mạnh trong khi hầu hết các nước ASEAN tụt lại đằng sau. Trong một chừng mực nào đó, các nước lân cận sẽ nhận được FDI để sản xuất các mặt hàng có tính chất bổ sung cho ngành kinh tế Trung Quốc.

Tóm lại, việc Trung Quốc gia nhập WTO có thể ảnh hưởng bất lợi đến những ngành gia công tập trung nhiều lao động của các nước ASEAN nhưng đồng thời cũng tạo ra cơ hội cho những ngành sản phẩm thô, sơ chế của các nước ASEAN. Xét về ngắn hạn và trung hạn, đây là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế các nước này nhưng về dài hạn, tác động tiêu cực hay bất lợi thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác bao gồm xu hướng đầu tư và chính sách của các thị trường khác, chính sách thương mại và môi trường thể chế của các nước Đông Nam Á.

Ngày đăng: 11/09/2022