trình sáng tác bài thơ nổi tiếng của ông hay không, nhưng có một điều chắc chắn: sự ra đời văn học hư cấu cũng đồng thời là sự lên ngôi của trí tuệ.” (Ngô Tự Lập, 2005, 32).
4. “Triết l sáng tác” trong truyện và thơ
4.1. “Triết lý” về kĩ thuật xây dựng truyện
Hầu hết truyện của Poe đều là thể loại truyện ngắn. E.A.Poe cũng chính là người khai sinh lý thuyết về truyện ngắn qua nhiều bài báo, phê bình tiểu luận của ông, và đã “mang lại cho nó một định nghĩa mà không ai vượt qua nổi” (Lê Huy Bắc, 2003). Trong Triết lý về sáng tác (Philosophy o Composition), kĩ thuật xây dựng cốt truyện được Poe nói rò: “Mọi cốt truyện đúng như tên gọi là cốt truyện phải được xây dựng nhằm vào sự mở nút của nó trước khi ngòi bút động đến những vấn đề
khác”. Và phải làm sao cho “những tình tiết và đặc biệt là những giọng điệu ở mọi điểm đều hướng về sự phát triển của ý đồ.”xi. Poe cũng nhấn mạnh nên “bắt đầu bằng sự cân nhắc một hiệu quả cho tác phẩm.” Nhất là “luôn phải giữ quan điểm về sự độc đáo - bởi vì những ai liều lĩnh sử dụng nguồn hứng thú quá rò và quá dễ dàng đạt được vì có sẵn thì sẽ lâm vào tình trạng giả dối với chính mình”xii. Ngoài ra, dung lượng của tác phẩm được Poe cho là cần xem xét đầu tiên, bởi theo ông “Nếu như một tác phẩm văn học quá dài, không thể đọc được một mạch (one sitting), chúng ta sẽ bỏ mất hiệu quả quan trọng phát sinh từ sự thống nhất ấn tượng (unity of impression) - bởi vì, nếu như phải đọc làm hai lượt, những công việc sự vụ trên đời này sẽ xen vào và cái tổng thể lập tức bị phá huỷ” xiii. Điểm này cũng được ông nêu cụ thể hơn trong tiểu luận Phê bình những truyện kể hai lần của Hawthorne (Review of Hawthorne Twice Told Tales). Muốn đạt hiệu quả ấy, nhà văn phải cân nhắc, tính toán trước những hiệu ứng nào sẽ gây ra nơi người đọc rồi mới chọn lựa, kết hợp các biến cố, các tình tiết để xây dựng thành tác phẩm, phải tạo ra những phương tiện biểu hiện làm tăng hiệu quả của sự r ng rợn và khiếp sợ. Và cũng có thể nói thiên tài của Poe là ở chỗ phát hiện rất sớm vai trò người đọc trong thời điểm bấy giờ. Nguyên tắc viết truyện ngắn này đã được Poe thử nghiệm trong nhiều tác phẩm của ông. Poe thường đặt bối cảnh truyện vào ban đêm, trong bóng tối; tập trung miêu tả những
hình ảnh tưởng tượng ghê rợn đến kì lạ vốn không có trong hiện thực như trong
ặt nạ tử thần đ , Sự sụp đổ của ngôi nhà Usher, Cu c trò chuyện với m t xác ướp, Linh hồn, Con quỷ trên gác chuông, Con mèo đen…chuyện “nhập xác” trong Ligeria, chuyện Egaeus vì quá thương tiếc người yêu mà trong cơn mộng du đã đào huyệt…mang về 32 cái răng nhỏ trắng của nàng trong Berenice…. Bản thân những hình ảnh ấy đã gợi trí tò mò và sự kinh hãi nơi người đọc. Tính biểu tượng về màu sắc, ánh sáng, âm thanh cũng góp phần tạo nên hiệu ứng khiếp sợ này. Poe đã miêu tả được trạng thái đặc biệt của tâm hồn con người qua tâm lý trái ngược lạ l ng, càng sợ hãi, người ta càng bị sự tò mò thôi thúc và muốn chiến thắng nỗi sợ hãi bằng cách khám phá nó đến c ng.
ách kể chuyện trong hầu hết các truyện của Poe thường đi theo thời gian hồi tưởng, nhân vật trần thuật thường là ngôi thứ nhất nên truyện của Poe mang dáng dấp những tự thuật, tự thú, dằn vặt, gợi liên tưởng đến những giá trị phê phán xã hội, kinh tởm sự độc ác của con người, d Poe tuyên bố tách rời văn chương với luân lý,
Có thể bạn quan tâm!
- Những Thống Kê Dựa Vào Những Phỏng Vấn Biết Đến Tác Giả Biết Đến Tác Giả
- Trong Các Tác Giả Văn Học M Thế Kỉ Xix-Xx Đư C Học Đọc Trong Nhà Trường, Bạn Thích Nh Ng Tác Giả Nào Tác Ph M Nào? (Đánh Dấu X Vào Các Số Theo Mức Độ:
- Sự tiếp nhận Edgar Allan Poe ở Việt Nam - 38
Xem toàn bộ 318 trang tài liệu này.
đạo đức…. Giọng người trần thuật Ngôn ngữ độc thoại do chính nhân vật – cũng là người kể chuyện tự kể lại những câu chuyện kì dị, khủng khiếp của mình là chọn lựa khá ph hợp của Poe. Kĩ thuật này góp phần phơi bày những giằng xé nội tâm của nhân vật, hoặc tự phân tích nguyên nhân gây ra tội ác và khiến người đọc như chứng kiến được toàn bộ quá trình phạm tội và cảm thông, sợ hãi, kinh hoàng hay tự đưa ra những phán xét. Những lý thuyết truyện ngắn trên đã tạo nên phong cách tiêu biểu cho truyện ngắn của Poe mà ngày nay đã trở thành khuôn mẫu của thể loại.
4.2. “Triết lý sáng tác” trong thơ ca
Trong tiểu luận nổi tiếng “Triết lý về sáng tác”, Poe đã kể lại cách mình sáng tác bài thơ ‘Con quạ’ như thế nào. Những luận điểm cơ bản về quan niệm nghệ thuật của Poe trong tiểu luận trên chúng tôi đã giới thiệu (phần 2.1.) nên không lặp lại, chỉ nhấn mạnh kĩ thuật xây dựng cấu trúc và ngôn ngữ thơ của Poe bởi các bước sáng tác của ông khá trái ngược với lối thông thường. Trước tiên, Poe cân nhắc độ dài của bài thơ không nên dài quá vì sẽ làm người đọc không thể đọc liền một mạch. Bước thứ hai là chọn lựa cảm xúc định gây nơi người đọc, mà theo Poe, cảm xúc đó phải là sự thích thú, và giọng thơ phải buồn đến ảo não, bi thảm. Thứ ba, điều căn bản nhất là “bài thơ phải có một điểm làm điệu chính, có tính cách nghệ thuật, kích thích. Điểm đó sẽ là điệp khúc (refrain). Nhưng điệp khúc chỉ được lặp lại về âm thanh, chứ không được đơn điệu về ý tưởng.” (Nguyễn Hiến Lê, 1957, 15). Để tránh sự nhàm chán, trong mỗi điệp khúc, âm thanh không thay đổi mà ý tưởng thì phải thay đổi để gây cảm xúc mới cho người đọc. Tất nhiên, điệp khúc cũng không nên dài quá, tốt nhất là những từ đơn, đặt ở cuối mỗi đoạn. Điệp khúc ở cuối mỗi khổ thơ, điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, điệp đầu câu, điệp vòng tròn… đều có mặt trong hầu hết các bài thơ kiệt xuất của ông. Điệp khúc này, theo Poe, phải có âm vang và dài. Đó là bước thứ tư. Rồi ông xét hết thảy các âm tiếng Anh và chọn kết hợp âm O và R thành điệp khúc “nevermore”. Thủ pháp này gần như là thủ pháp nghệ thuật chính trong thơ ông. Điệp khúc được sử dụng ở cuối mỗi khổ thơ, và điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, điệp đầu câu, điệp vòng tròn… đều có mặt trong hầu hết các bài thơ của ông. Đơn cử một vài thí dụ như:
Nothing more (6 lần), Nevermore (11 lần), my chamber door (7 lần), his chamber door (2 lần) – (The Raven)
Not all (6 lần) our power, our ame,
the magic, the wonder,
the mysteries, the memories (The Coliseum)
Keeping time, time, time (4 lần) (The Bells)
From the bells, bells, bells, bells,
Bells, bells, bells-
Of the bells, bells,bells, bells
Bells, bells, bells- (7 lần) – (The Bells)
In a kingdom by the sea (5 lần), my Annabel Lee (3 lần), the beautiful Annabel Lee (3) (Annabel Lee)
Với ý thức chọn lựa âm thanh công phu, đúng là Poe đã tạo nên những âm thanh kì diệu bởi ngôn từ. Có thể thấy, chỉ riêng từ “bells” đã xuất hiện 61 lần/112 dòng thơ của bài ‘Những tiếng chuông’. Các từ thính giác và thị giác được liên kết tạo thành một giai điệu bất tận, lan tỏa, diễn tả sự tương hợp xúc cảm giữa con người và vũ trụ. Thủ pháp điệp khúc độc đáo này đã làm tăng nhạc tính cho thơ mà không bị c n mòn về nghĩa. Rimbaud, Verlaine và nhiều nhà thơ Pháp rất ngưỡng mộ kĩ thuật này.
Bấy giờ mới đến bước thứ năm là tìm ý chính cho toàn bài. Chọn được đại ý rồi ông bắt đầu kiếm ý cho mỗi khổ và viết ngay khổ kết là khổ buồn thảm nhất và lấy khổ ấy làm chuẩn để viết các khổ trước nó. Cuối c ng ông mới chọn khung cảnh ph hợp cho bài thơ để làm tăng cảm xúc bi thảm đã định. Có thể thấy, Poe đã tính toán hết sức tỉ mỉ các yếu tố hình thức của một bài thơ từ âm thanh, từ ngữ, số câu, số đoạn đến hình ảnh và cảm xúc theo phương pháp hình thức quyết định nội dung. Giới phê bình Âu Mỹ và cả Việt Nam chúng ta đã có biết bao tranh cãi, hoài nghi về các bước hình thành bài thơ của Poe d không phủ nhận tiểu luận này là tư liệu quý giá cho các nhà nghiên cứu như đã nêu ở mục 3.
Tính nhạc chính là luận điểm quan trọng xuyên suốt nhiều tiểu luận phê bình của Poe và sau này trở thành nguyên tắc quan trọng của thơ tượng trưng. Âm nhạc giúp thơ mở ra những chân trời mới không c ng cho tưởng tượng của người nghệ sĩ. Trong “Thư gửi ” (Letter to B), Poe kh ng định: “Âm nhạc mà không có ý tưởng chỉ đơn thuần là âm nhạc, còn ý tưởng mà không có âm nhạc thì chỉ là văn xuôi”xiv (Baym Nina, 1989, 872). Mặc d một số nhà phê bình Mỹ cho rằng “cái đẹp trong nhịp điệu và âm thanh của Poe thường chỉ có một nội dung trống rỗng” (Nguyễn Đức Đàn, 1996, 69), hoặc do ý đồ kỹ thuật quá đậm nên thơ của ông thiếu
sự hồn nhiên, thành thực. Nhưng nếu đã đọc từng bước tỉ mỉ, cẩn thận theo logic mà Poe giải thích quá trình hình thành một bài thơ trong Triết lý về sáng tác, h n có thể thấy Poe là một nhà thơ lao động nghiêm túc đến độ tận tuỵ khi khổ công tính toán, chọn lựa hình ảnh, kết cấu, nhịp điệu cho thơ.
Về ngôn ngữ, Poe thường d ng nhiều định ngữ nghệ thuật mang tính tráng lệ pha lẫn khoa trương tạo ấn tượng mạnh về cảm xúc. Các nhà “Poe học” (Poe scholars) Mỹ và thế giới đã có nhiều công trình khảo sát diễn ngôn nghệ thuật của Poe và đề cao ông là một nhà tu từ học, phong cách học, người sáng tạo ngôn từ bởi sự tinh thông của ông về các phong cách đa dạng của ngôn ngữ văn chương và sự sử dụng từ ngữ, âm thanh khéo léo, tài tình đầy sáng tạo của ông. Burton R. Pollin đã liệt kê những từ đơn, từ ghép và danh từ riêng tiếng Anh do Poe sáng tạo hoặc sử dụng đầu tiên trong công trình Poe, Creator of Words của ông gồm 1143 từ mới xuất hiện trong văn học, nhiều hơn cả Melville 200 từ. Trong ản chất của thơ ca (The Rationale of Verse), Poe nhắc lời Goold Brown định nghĩa: “Phép làm thơ là nghệ thuật sắp xếp từ ngữ vào những dòng thơ có chiều dài tương ứng, ph hợp để tạo sự hài hòa bởi sự thay đổi luân phiên của các âm tiết khác nhau (dài - ngắn) về số
lượng”xv (E.Poe, 1850, 217) theo một sự tính toán chặt chẽ. Mọi sự sắp xếp này, nếu đo lường được, có thể tìm thấy mối quan hệ toán học chính xác. Theo ông, “nguyên
tắc sơ đ ng của thơ có lẽ chỉ tìm được trong nhịp spondee, và mọi mầm mống của ý tưởng đều có thể tìm được trong sự cân bằng của một nhịp có hai âm tiết”xvi (E.Poe,
1850, 223). Poe cũng đòi hỏi phải có sự hài hòa, tính chất du dương tạo nên bởi tiết tấu trong từng vần thơ. Và, tính chất ấy chỉ có thể được tạo nên bởi Âm nhạc. Nhiều bài thơ của ông đã chứng minh quan niệm này. The Raven, The Bells, A Dream within a Dream, The City in the Sea, Annabel Lee…là những đỉnh cao nghệ thuật của thơ Poe không chỉ qua hình tượng nghệ thuật tượng trưng ám dụ, âm điệu u hoài mà còn là sức rung động của từ ngữ, nhất là những từ tượng thanh, cách d ng các phụ âm, hiệp vần, điệp khúc…, với một sự thấu hiểu kỳ lạ về nhiều chức năng của sự giao tiếp bằng ngôn từ.
Trên đây là khái lược những nét cơ bản nhất về quan niệm nghệ thuật kì lạ, mới mẻ về Cái Đẹp, quan điểm sáng tác, triết lý và những nguyên tắc sáng tác một bài thơ, truyện ngắn của E.A.Poe thể hiện qua các tiểu luận phê bình độc đáo và thực tiễn sáng tác của ông. Thời đại Poe sống đã chỉ trích, phê phán, cho là điên rồ, nhảm nhí, chỉ một số rất ít đồng nghiệp của Poe tiếp nhận, bởi nó cách quá xa những kinh nghiệm họ từng đọc, từng biết trước đó. Oái oăm thay, cũng chính những tác phẩm bị nước Mỹ quê hương Poe ruồng bỏ lại được Châu Âu nồng nhiệt yêu mến, tôn thờ. Nga, Pháp, là những nước đầu tiên phát hiện và tôn vinh thiên tài Edgar Poe. Và, một thế kỉ sau, từ các nhà tượng trưng Pháp, Poe lại được sự đồng cảm lạ l ng bởi các nhà văn, nhà thơ lãng mạn Việt Nam.
TP.HCM, 5. 2011
CHÚ THÍCH
i “Beauty is the sole legitimate province of the poem…That pleasure which is at once the most intense, the most elevating, and the most pure, is, I believe, found in the contemplation of the beautiful. [1, 1323]
ii “Truth, in fact, demands a precision, and Passion, a homeliness (the truly passionate will comprehend me) which are absolutely antagonistic to that Beauty” [1, 1322]
iii “In brief, the Poetry of words as The Rhythmical Creation of Beauty. Its sole arbiter is Taste. With
the Intellect or with the Conscience, it has only collateral relations. Unless incidentally, it has no concern whatever either with Duty or with Truth.” (The Poetic Principle).
iv “this Principle itself is, strictly and simply, the Human Aspiration for Supernal Beauty, the manifestation of the Principle is always found in an elevating excitement of the Soul — quite independent of that passion which is the intoxication of the Heart — or of that Truth which is the
satisfaction of the Reason” [1,1347]
v “Beauty of whatever kind, in its supreme development, invariably excites the sensitive soul to tears. Melancholy is thus the most legitimate of all the poetical tones” [1,1323]
vi “I could anticipate no regeneration save in death. That man, as a race, should not become
extinct…he must be born again” (Cu c trò chuyện của onos và Una- The Colloquy of Monos and Una).
vii “While, on dreams relying, I am spelled by art.” (To Miss Louise Olivia Hunter)
viii “I have been happy, tho’ in a dream. I have been happy- and I love the theme” (Dreams)
ix “Dividing the world of mind into its three most immediately obvious distinctions, we have the
Pure Intellect, Taste, and the Moral Sense. I place Taste in the middle, because it is just this position which, in the mind, it occupies.” (The Poetic Principle) [1,1334]
x I select "The Raven", as most generally known. It is my design to render it manifest that no one
point in its composition is referrible either to accident or intuition — that the work proceeded, step by step, to its completion with the precision and rigid consequence of a mathematical problem. (The Philosophy of Composition), [1, 1321]
xi“Nothing is more clear than that every plot, worth the name, must be elaborated to its dénouement
before any thing be attempt with the pen. It is only with the dénouement constantly in view that we can give a plot its indispensable air of consequence, or causation, by making the incidents, and especially the tone at all points, tend to the developmentof the intention” (Philosophy of Composition) [1, 1319]
xii “Keeping originality always in view- for he is false to himself who ventures to dispense with so obvious and so easily attainable a source of interest” [1, 1320]
xiii “If any literary work is too long to be read at one sitting, we must be content to dispense with the immensely important effect derivable from unity of impression – for, if two sittings be required, the
affairs of the world interfere, and every thing like totality is at once destroyed.” [1, 1321]
xiv “…Music without the idea is simply music; the idea without the music is prose…”(Letter to B) xv "Versification is the art of arranging words into lines of correspondent length, so as to produce harmony by the regular alternation of syllables differing in quantity."
xvi “The rudiment of verse may possibly be found in the spondee. The very germ of a thought
seeking satisfaction in equality of sound would result in the construction of words of two syllables, equally accented. In corroboration of this idea we find that spondees most abound in the most ancient tongues.” (The Rational of Verse). Spondee: một nhịp được d ng nhiều nhất trong thơ cổ, gồm hai âm tiết mạnh, có nhấn giọng - tạm hiểu tương đương như vần trắc như trong luật thơ tiếng Việt).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baym, Nina. 1989. The Norton anthology of American literature, NewYork - Lond: W.W.Norton.
2. Cabau, Jacques. 2009. Edgar Poe, khát khao sáng tạo và huỷ diệt, Khổng Đức dịch, H : Nxb. Thời đại.
3. Carlson, Eric W. 1973. Poe on the soul of man, Baltimore: Edgar Allan Poe society of Baltimore. S:1 - PSM, 1973.
4. Hà Minh Đức. 1997. Thơ và mấy vấn đề trong thơ hiện đại, H:Nxb GD.
5. Jakobson. 2008. Thi học và Ngữ học - Lý luận văn học phương Tây hiện đại, Trần Duy Châu biên khảo. H: Nxb. Văn học, Trung tâm nghiên cứu quốc học.
6. Lê Đình Cúc. 2001. ăn học ỹ-mấy vấn đề và tác giả. H: Nxb. KHXH.
7. Lê Huy Bắc. 2003. Cần chủ động hơn nữa trong việc tiếp cận văn học Mỹ. Trả lời phỏng vấn. Việt Báo. Đăng ngày 14-3-2003. Nguồn: http://vietbao.vn/Giai-tri/Can-chu-dong-hon-trong-viec-tiep-can-van-hoc- My/20005513/235/
8. Ngô Tự Lập. 2002. Tuyển tập Edgar Allan Poe. H : Nxb. Văn học.
9. Ngô Tự Lập. 2005. inh triết của giới hạn. H : Nxb. Hội nhà văn.
10. Nguyên Sa. 1967. t bông hồng cho văn nghệ. S: Trình bầy.
11. Nguyễn Hiến Lê. 1957. Luyện văn. SG: Nxb. Nguyễn Hiến Lê.
12. Nguyễn Đức Đàn. 1996. Hành trình văn học ỹ, H: Nxb Văn học.
13. Poe, Edgar Allan, 1984. Complete Stories s and poems of Edgar Allan Poe, USA: Publisher. Doubleday; Book Club edition (August 15, 1984)
14. Poe, Edgar Allan. 1850. “The Rationale of Verse”, The Works of the Late Edgar Allan Poe, edited by Rufus Wilmot Griswold. Vol.II. Poems and Miscellanies, New York: J. S. Redfield,Clinton Hall. 1850, page 215-258.
15. Pollin, Burton R. (1973), (1998), Poe, Creator of Words. Bài tham luận kỉ niệm 50 năm thành lập The Edgar Allan Poe Society ở Baltimore, nguồn: http://www.eapoe.org/PAPERS/psblctrs/pl19741.htm.
***