gia vào việc quản lý, bảo trì các con đường sau khi hoàn thành thì người dân đóng vai trò là người quản lý.
Suy cho cùng các văn bản được triển khai ở địa phương khi thực hiện tiêu chí số 2 đường GTNT vẫn dựa trên cơ sở của Quyết định 800/QĐ-TTg, đây là văn bản có giá trị pháp lý cao đối với Chương trình xây dựng NTM, thì vai trò người dân cũng chỉ dừng ở mức độ tham gia đóng góp ý kiến. Như vậy, thực tế pháp lý cho những quy định về vai trò của người dân trong việc xây dựng NTM nói chung, xây dựng đường GTNT nói riêng vẫn chưa đầy đủ và hoàn thiện.
2.6 Kinh nghiệm và bài học về công tác xây dựng đường GTNT
Trên thực tế ở các nước có nền kinh tế phát triển nhanh đều trong những thập niên gần đây đã cho thấy các nước này đều đưa ra chủ trương đi đầu trong việc phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt chú trọng đầu tư phát triển hệ thống đường GTNT. Có thể nói hầu hết các nước có tốc độ phát triển nhanh trong những năm qua đều là những nước cơ bản đã hoàn thành cơ sở hạ tầng, trong đó có hệ thống đường GTNT. Có thể thấy rõ điều này qua tình hình thực hiện đầu tư và chiến lược phát triển hệ thống đường GTNT ở một số nước như Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước Đông Nam Á có điều kiện tự nhiên và đặc điểm sản xuất nông nghiệp tương tự nước ta (Đỗ Xuân Nghĩa).
* Trung Quốc
Trung Quốc là nước nông nghiệp, đất rộng người đông, dân số trên 1,2 tỷ người trong đó nông đân chiếm tới 80%. Với cơ sở nông thôn là làng hành chính mỗi làng có từ 80 - 900 dân, do đó công nghiệp nông thôn phát triển nên cần mạng lưới cơ sở hạ tầng giao thông ở Trung Quốc phát triển. Nhưng do vốn đầu tư cơ bản còn hạn chế, Trung Quốc đã phát động phong trào toàn dân cùng làm đường GTNT. Quan điểm chủ đạo của Chính phủ Trung Quốc là “thà làm nhiều đường tiêu chuẩn cấp thấp để liên hệ với những xóm làng hơn là đường tốt mà nối đưọc ít làng xóm. Bước đầu thì đi tạm, sau đó nâng cấp cũng chưa muộn”.
Với phương châm này, sử dụng một cách khoa học các loại vật liệu tại chỗ như đất và các vật liệu cấp thấp để xây dựng đường giao thông cho kịp thời. Sau đó
phân loại để lần lượt nâng cấp và đặc biệt chú ý đến công tác bảo dưỡng nền đường. Nhờ đó tạm thời đáp ứng được nhu cầu vận tải trước mắt, tiết kiệm vốn đầu tư ban đầu.
Có thể bạn quan tâm!
- Sự tham gia người dân trong việc xây dựng công trình giao thông nông thôn trên địa bàn huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu - 1
- Sự tham gia người dân trong việc xây dựng công trình giao thông nông thôn trên địa bàn huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu - 2
- Vai Trò Của Người Dân Trong Xây Dựng Các Công Trình Gtnt
- Diện Tích, Dân Số, Giao Thông, Địa Giới Hành Chính
- Phân Tích Về Sự Tham Gia Của Người Dân Vào Xây Dựng Đường Gtnt Tại Huyện Tân Thành, Br-Vt
- Cách Thức Người Dân Biết Về Chương Trình Xây Dựng Đường Gtnt
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
* Hàn Quốc
Nhà nước hỗ trợ, nhân dân đóng góp công sức và vật chất, nhân dân tự quyết định xây dựng công trình theo thứ tự ưu tiên và chịu trách nhiệm, quyết định tất cả về việc thiết kế, thi công, nghiệm thu công trình đưa vào hoạt động. Nhà nước bỏ ra 1 (chủ yếu là vật tư, xi măng, sắt thép…) thì nhân dân bỏ ra 5 - 10 (sức lao động và tiền mặt). Sự giúp đỡ của Nhà nước trong năm đầu chiếm tỷ trọng cao, các năm sau tỷ trọng hỗ trợ của Nhà nước giảm dần trong khi quy mô tại địa phương và nhân dân tham gia lại tăng dần. Nhân dân thực hiện và bước đầu đạt được kết quả khả quan. Bước đi của chương trình này diễn ra như sau:
- Phát huy nội lực của nhân dân để xây dựng đường GTNT. Nông dân ở mỗi làng dưới sự tổ chức của Ủy ban phát triển nông thôn tiến hành dân chủ lựa chọn các dự án phát triển. Bước đầu là xây dựng các công trình đường GTNT thôn xã. Qua hệ thống hành chính địa phương, mỗi làng báo cáo và liệt kê các dự án theo thứ tự ưu tiên cho Ủy ban huyện.
- Để kích cầu tiêu thụ ít xi măng tránh trường hợp sản xuất ứ đọng, Chính phủ phân phối xi măng hỗ trợ các làng làm chương trình. Chính phủ cấp cho mỗi làng 300 bao xi măng phân phối qua các kênh hành chính địa phương, từ TW đến tỉnh tới các làng không phân biệt quy mô và vị trí của làng, không phân biệt làng giàu hay làng nghèo. Trợ giúp khiêm tốn này được coi như chất xúc tác thúc đẩy phát triển đi lên. Đến năm 1978, các dự án phát triển GTNT cơ bản được hoàn thành, tổng chiều dài các con đường được xây dựng mới và mở rộng từ làng tới các trục đường chính lên tới 43.631 km. Các con đường trong xã được mở rộng và xây mới lên tới 42.220 km. Khoảng 70.000 các cây cầu kênh nhỏ các loại được sửa chữa và xây mới. Mở rộng phong trào xây dựng đường GTNT sang các hợp tác xã và doanh nghiệp.
Trong những năm 50 - 60, hệ thống hợp tác xã được tổ chức song song với hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước nhằm phục vụ tốt cho các mục tiêu của Chính phủ. Phần lớn các khoản thu nhập của hợp tác xã được trả cho cán bộ nhân viên của hệ thống tổ chức xây dựng đường giao thông.
* Malaysia
Trong cuốn “Malaysia về kế hoạch triển vọng lần thứ II (1991-2000) do Cục xuất bản quốc gia Malaysia ban hành, đường GTNT đã đưa ra những kết luận quan trọng về đầu tư phát triển đường GTNT trong phát triển nông nghiệp nông thôn. Các kết luận hầu hết cũng được các nước khác trong khu vực và thế giới ghi nhận. Các kết luận này là:
- Đầu tư phát triển đường GTNT là việc cần thiết. Việc xây dựng và nâng cấp đường nông thôn sẽ tiếp tục nâng cao khả năng tiếp cận của những khu vực nông thôn và bổ sung những nỗ lực xoá đói giảm nghèo của Chính phủ. Hệ thống đường GTNT sẽ được mở rộng đến các trung tâm tăng trưởng mới và những vùng kém phát triển hơn nhằm nâng cao khả năng tiếp cận, phù hợp với mục tiêu cân đối tổng thể cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Việc phát triển hệ thống đường GTNT rộng rãi hơn và hiệu quả hơn trong mạng lưới đường GTNT ngày càng phức tạp với chất lượng ngày một nâng cao phải đòi hỏi những nguồn lực phức tạp. Trong khi Nhà nước tiếp tục huy động các nguồn ngân sách để đáp ứng những nhu cầu này, thì sự tham gia mạnh mẽ hơn của tư nhân ngày càng quan trọng. Để thực hiện phương châm này chính phủ cần giải quyết những vấn đề mà khu vực tư nhân gặp phải như: Khuyến khích đầu tư, định giá, thu hồi phí…
* Thái Lan
Thái Lan là một trong những nước lớn cả về diện tích và dân số trong khu vực Đông Nam Á, là một trong các nước nông nghiệp xuất khẩu gạo, cao su tự nhiên hàng đầu thế giới. Chính sách kinh tế của Thái Lan là ưu tiên phát triển đường giao thông đặc biệt là giao thông đường bộ.
Năm 1992, tổng chiều dài đường bộ cả nước là 167.448 km, trong đó có
107.300 km là đường GTNT. Từ kế hoạch 5 năm (1972 - 1976) mạng lưới đường GTNT đã được quan tâm phát triển, đặc biệt là các tuyến đường nối liền từ khu vực sản xuất đến với các thị trường chế biến và tiêu thụ. Đến cuối kế hoạch năm 1976, Thái Lan đã xây dựng mới và nâng cấp 16.569 km đường GTNT, phần lớn tập trung vào các vùng có tiềm năng nông nghiệp nông thôn.
Đường GTNT được đưa vào kế hoạch xây dựng với mục đích phát triển các khu vực có tiềm năng chưa được khai thác và phục vụ nhu cầu quốc phòng. Mục đích chung của việc phát triển mạng lưới đường GTNT là:
+ Bảo đảm khoảng cách từ các làng xóm đến bất cứ tuyến đường ô tô nào cũng không được lớn hơn 5 km.
+ Hoàn thiện mạng lưới đường GTNT kết hợp với biên giới hành chính của các tỉnh, huyện, xã.
+ Bảo đảm đầu tư các tuyến đường phục vụ quyền lợi cho người dân nông
thôn.
Mặc dù đã phát triển hệ thống đường GTNT trên toàn quốc và đã thu được
nhiều kết quả đáng kể trong việc mở rộng sản xuất, nhưng sự cách biệt giàu nghèo ở nông thôn ngày càng lớn, đây là một vấn đề mà Thái Lan đang gặp phải.
Qua nghiên cứu về công tác xây dựng đường GTNT ở một số nước, tác giả thấy rằng muốn phát triển nông thôn nhất thiết phải đầu tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt phải có một hệ thống đường giao thông phát triển hợp lý mới có khả năng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Qua đây tác giả xin rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với quá trình xây đường GTNT ở Việt Nam:
- Phát huy nội lực của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, dưới sự tổ chức của UBND xã, huyện, nhân dân mỗi làng xã góp sức và vật chất, tiền của để xây dựng giao thông. Vì nguồn lực của NN rất hạn hẹp trong khi đó nguồn lực từ trong nhân dân rất dồi dào, phải huy động tối đa các nguồn lực mới có thể đem lại thành công của chương trình. Nguồn lực của nhân dân cần huy động ở đây không chỉ là tiền của, công sức mà còn cả trí tuệ. Ở đây, phải phát huy vai trò
chủ thể của người dân còn vì đây là quá trình nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mỗi người dân.
- Mỗi địa phương có điểm xuất phát khác nhau, có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khác nhau nên có những biện pháp, cách thức riêng. Do đó, để có thể xây dựng các công trình GTNT một cách hiệu quả thì chính người dân ở địa phương đó phải là người tham gia bàn bạc, quyết định. Một điều cần khẳng định là chỉ có phát huy trí tuệ, sự sáng tạo của nhân dân trong xây dựng các kế hoạch, biện pháp cụ thể, mới khơi dậy được những cách làm hay, quản lý hiệu quả các công trình GTNT. Trong điều kiện kinh tế còn khó khăn thì việc đầu tư xây dựng nhiều đường tiêu chuẩn cấp thấp phục vụ đi lại sản xuất sau đó sẽ nâng cấp, bảo dưỡng. Mở rộng phong trào phát triển cơ sở giao thông sang tất cả các thành phần kinh tế, chủ thể trong xã hội.
- Để xây dựng được các công trình GTNT thì cần nguồn kinh phí tương đối lớn, song nguồn lực tài chính từ ngân sách là có hạn, cần phải huy động từ trong nhân dân, việc vận động người dân tự nguyện hiến đất để xây dựng các công trình GTNT là khá quan trọng. Do thực tế thì kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng là rất lớn, thực tế tại khá nhiều địa phương thì người dân đã tình nguyện hiến đất để xây dựng các công trình GTNT. Ngoài việc tự nguyện hiến đất để xây dựng các công trình GTNT thì người dân còn tham gia vào việc xây dựng các công trình GTNT như mua nguyên vật liệu, giám sát thi công và kết quả là công trình nghiệm thu nhanh chóng, đạt chất lượng tốt với kinh phí đầu tư thấp, tránh thất thoát, lãng phí.
Ngoài ra, cán bộ chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phương phải gương mẫu đi đầu trong việc đóng góp tiền của, ngày công xây dựng các công trình GTNT để người dân thực hiện theo. Bản thân họ cũng cần gương mẫu đi đầu, là tấm gương cho mọi người nhìn vào, học tập, đồng thời đó cũng là bổn phận trách nhiệm của họ trong công cuộc xây dựng quê hương đất nước.
- Để quản lý hiệu quả các công trình GTNT thì các cấp chính quyền cần tuyên truyền cho người dân hiểu vừa là người quản lý song lại là người thụ hưởng lợi ích từ chính những công trình giao thông đem lại. Đồng thời, các cấp chính
quyền cũng cần chú ý tuyên truyền cho người dân hiểu trong điều kiện nguồn ngân sách hạn hẹp, NN chỉ hỗ trợ một phần kinh phí, hỗ trợ kỹ thuật,… còn vai trò chính vẫn là mỗi người dân. Một khi người dân hiểu thấu đáo vấn đề này, sẽ không còn tư tưởng trông chờ và ỷ lại.
- Bên cạnh đó, việc xây dựng các công trình GTNT cần được thực hiện một cách minh bạch, nhằm mục đích tạo điều kiện để nhân dân tự quản, tự bàn bạc quyết định việc xây dựng cũng như quản lý các công trình GTNT.
Một khi người dân có quyền quyết định việc sử dụng nguồn vốn do mình đóng góp, giám sát việc sử dụng nguồn vốn đó thì người dân mới tích cực, hăng hái đóng góp tiền của để xây dựng quản lý các công trình GTNT.
Thật vậy, việc kêu gọi người dân đóng góp quá nhiều mà thiếu đi sự minh bạch trong chi tiêu thì đối với người dân sẽ cảm thấy những áp lực tài chính nặng nề, bản thân người dân chưa thấy được những lợi ích từ việc xây dựng các công trình GTNT mà chỉ thấy việc xây dựng này như một gánh nặng tài chính đổ lên đầu họ. Từ đó, họ không hề thấy hào hứng trong việc quản lý các công trình GTNT, tất yếu về lâu dài các công trình GTNT sẽ không được đưa vào khai thác một cách hiệu quả.
Bản thân mỗi địa phương cũng cần đẩy mạnh đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho hệ thống quản lý, bảo trì đường GTNT cần đặc biệt chú trọng; chú trọng đào tạo cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ về quản lý đầu tư, quản lý bảo trì cho cán bộ quản lý GTNT các cấp nhằm phát huy tối đa hiệu quả các dự án đã hoàn thành đưa vào khai thác.
Đào tạo cán bộ kỹ thuật theo dõi, giám sát, hướng dẫn dẫn chuyên môn nghiệp vụ, tập huấn cho các cán bộ xã, huyện phụ trách giao thông, quy hoạch bằng các hình thức đào tạo, kết hợp giữa đào tạo với thực hành nhằm nâng cao trình độ quản lý và trình độ kỹ thuật.
2.7 Các đề tài nghiên cứu liên quan
* Nghiên cứu về sự tham gia của người dân thì Quyền Đình Hà và cộng sự được xuất bản năm 2005 cho rằng, người dân thường tham gia các chương trình dự án với các mức độ:
- Không tham gia: Không tham gia cán bộ điều khiển vì họ chỉ làm và nghe theo chỉ đạo, không được thảo luận. Hoặc chỉ tham gia mang tính hình thức, đó là đi họp cho có đi, làm theo mọi ý kiến của cán bộ.
- Ít tham gia: Người dân được thông báo, hiểu rõ những việc mà cán bộ muốn họ tham gia, sau đó người dân đóng góp công sức hay tiền của theo khả năng của mình. Người dân được hỏi ý kiến về kế hoạch công tác do cán bộ thiết kế và quản lý, người dân được mời tham gia và được hỏi ý kiến, cán bộ nghe ý kiến và điều chỉnh kế hoạch cho hợp lý.
- Tham gia thực sự:
+ Cán bộ khởi xướng, người dân cùng tham gia lấy quyết định: Cán bộ là người khởi xướng, có ý tưởng. Người dân chủ động tham gia cùng cán bộ từ khâu lập kế hoạch, quyết định chọn các phương án đến khâu tổ chức thực hiện.
+ Người dân khởi xướng và cùng cán bộ ra quyết định: Người dân khởi xướng, lập kế hoạch, cùng cán bộ ra quyết định chọn các phương án và tổ chức thực hiện.
+ Người dân khởi xướng, quyết định chọn các phương án và có sự hỗ trợ của cán bộ: Người dân khởi xướng lập kế hoạch, quyết định chọn các phương án và tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát. Cán bộ đóng vai trò khi người dân cần.
+ Người dân tự lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, cán bộ chỉ hỗ trợ khi cần
thiết.
* Nghiên cứu vai trò của người dân trong xây dựng đường GTNT huyện
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên (Đỗ Văn Tuấn, Đại học Nông nghiệp Hà Nội, năm 2012), tác giả cho rằng, người dân có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng GTNT trong nông thôn mới với các luận điểm chính như: Người dân đóng vai
trò quan trọng trong việc tham gia các hoạt động xây dựng GTNT; Quản lý và duy tu hệ thống GTNT tại địa phương là công sức lớn của đại bộ phận dân cư.
* Nghiên cứu của Công ty Tư vấn Mekong Economics (2005) về: “Sự tham gia của Cộng đồng trong Giao thông Nông thôn”, những vấn đề về sự Đóng góp và Tham gia của người dân ở Việt Nam – Nghiên cứu 02 tỉnh Vĩnh Long và Phú Thọ. Nghiên cứu này đã đánh giá được các hình thức và mức độ đóng góp của người dân cũng như tác động đến các khoản đóng góp đối với đời sống nhân dân tại địa phương. Bên cạnh đó, xem xét vai trò tham gia của cộng đồng địa phương trong việc xây dựng đường GTNT, đề xuất các khuyến nghị để tăng cường sự tham gia của người dân.
Từ những nghiên cứu này, ta có thể thấy được khi người dân thật sự có hiểu biết, được bàn bạc và đóng góp ý kiến cũng như tham gia kiểm tra, giám sát thì hiệu quả được nâng cao, người dân sẽ tự tin tham gia tích cực, chủ động hơn trong các hoạt động. Ngoài ra, ở các nghiên cứu này đã chỉ ra vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng đường GTNT trong Chương trình NTM.
Như vậy qua các lý thuyết về sự tham gia của người dân, cũng như bài học kinh nghiệm được rút ra đều cho thấy vai trò của người dân thật sự quan trọng trong việc phát triển bền vững về nông nghiệp nói chung, đường GTNT nói riêng. Người dân là trung tâm, là chủ thể của mọi quá trình kinh tế - văn hóa - xã hội diễn ra ở nông thôn, các chương trình mà họ tham gia sẽ bị tác động tùy thuộc vào mức độ tham gia của họ. Do đó, vai trò và mức độ tham gia của người dân sẽ quyết định đến sự thành công của chương trình đó.