ppm và 0,2 ppm) thì hàm lượng MG và Leucomalachite green (LMG) tồn tại trong cơ và da cá rất cao (trung bình từ 39,8 đến 73,5 ppb) chiếm 40% so với nồng độ gây nhiễm ban đầu, nhưng sau 72 giờ gây nhiễm thì hàm lượng MG và (LMG) trong cơ và da cá giảm nhanh đạt giá trị khoảng 10-25% hàm lượng tồn lưu ở lần thu mẫu 6 giờ. Tuy nhiên, khả năng chuyển hóa và đào thải của MG thì khác nhau tùy theo từng loài cá và môi trường sống. Ở cá, hơn 80% MG bị hấp thu và chuyển hóa thành LMG, ngoài ra MG có thể tồn tại trong môi trường nước khoảng 80 ngày, nó còn ảnh hưởng đến các sinh vật trong nước như: tảo, nguyên sinh động vật (Lương Thị Diễm Trang, 2009).
2.2.4 Ảnh hưởng đến sức khoẻ con người
Việc sử dụng thuốc và hóa chất trong NTTS công nghiệp như là thuốc kháng sinh, thuốc diệt nấm, chất gây màu nước và hormone với tỉ lệ ngày càng tăng trong các trại đã ảnh hưởng đến sức khỏe con người, tính an toàn của thực phẩm (Lương Đức Phẩm, 2001) và lưu tồn với số lượng lớn. Kết quả điều tra nghiên cứu của Kimbrell and Letterman (2005) cho thấy khả năng ảnh hưởng của thuốc và hóa chất dùng trong NTTS đến sức khỏe con người được trình bày ở bảng (2.2).
Theo Bùi Quang Tề và ctv. (2006a) cho thấy một vài hậu quả cụ thể gây ra từ kháng sinh như: Chloramphenicol gây chứng máu chậm đông, thiếu máu do làm giảm sự hấp thu và vận chuyển sắt (Lương Đức Phẩm, 2001). Neomyxin kìm hãm sự hoạt hóa disaccharidaza của ruột, tao nên tác động phụ làm rối loạn hô hấp, Streptomyxin và các aminoglycosid đã làm liệt hô hấp và làm liệt các cơ khác do nó làm giảm sự dẫn truyền kích thích thần kinh, các aminoglycosid lại làm kéo dài thời gian tái hóa vôi, do đó gây độc cho gan, ngoài ra một số kháng sinh còn gây dị ứng cho cơ thể. Chính vì những hạn chế trên mà các nhà khoa học đã đưa ra một bản dự thảo về một số kháng sinh, hóa dược, chế phẩm sinh học dự định được thay thế kháng sinh cấm sử dụng trong NTTS nhằm làm giảm những tác hại không mong muốn gây ra cho con người.
Đối với các kháng sinh như erythromycin, rifampin được dùng để thay thế cho kháng sinh chloramphenicol, nitrofuran, furazon. Kháng sinh bactrim và doxycycline thì thay cho chloramphenicol, nitrofuran, furazon và metrodidazole. Kháng sinh chlortetracyclin dùng thay cho kháng sinh cấm hiện nay là chloramphenicol và nitrofuran. Bên cạnh đó còn có một số hóa dược như MS-222 thay thế cho kháng sinh chloroform và chlorpromazine trong điều trị. Ngoài ra còn
có nhóm thuốc sát khuẩn như tricloisocyanuric acid (TCCA), BKC, chlorine, dung dịch anolyte, iodine, formalin và KMnO4 thì dùng để thay thế các chất khử trùng có độc lực cao. Quan trọng hơn là việc dùng chế phẩm sinh học như các vi sinh vật hữu ích, men vi sinh, chiết xuất của thực vật (trừ Aristolochia spp), β Glucan, Vắc-xin vô hoạt, Bacterin giải độc tố, kháng thể và vitamin các loại để thay thế các loại kháng sinh cấm.
Bảng 2.2: Khả năng ảnh hưởng của thuốc và hóa chất dùng trong NTTS đến sức khỏe con người (Kimbrell and Letterman, 2005).
Có thể bạn quan tâm!
- Sử dụng chất chiết xuất từ cây hoàng kỳ (astragalus membranaceus) để phòng bệnh mủ gan do vi khuẩn edwardsiella ictaluri trên cá tra (pangasinodon hypophthalmus). - 1
- Sử dụng chất chiết xuất từ cây hoàng kỳ (astragalus membranaceus) để phòng bệnh mủ gan do vi khuẩn edwardsiella ictaluri trên cá tra (pangasinodon hypophthalmus). - 2
- Thí Nghiệm Gây Cảm Nhiễm Sau Khi Cho Ăn Thảo Dược 5 Tuần.
- Ảnh Hưởng Của Chất Chiết Xuất Từ Cây Hoàng Kỳ Lên Các Chỉ Tiêu Huyết Học Của Cá Tra Cảm Nhiễm Vi Khuẩn E. Ictaluri.
- Ảnh Hưởng Của Chiết Xuất Hoàng Kỳ Lên Sự Nhiễm Bệnh Mủ Gan Do Vi Khuẩn
Xem toàn bộ 72 trang tài liệu này.
STT Thuốc và
hóa chất
Ví dụ Loài bị nhiễm Khả năng nguy hiểm
1 Kháng sinh Oxytetracycline,
Chloramphenicol, Sulfadimethoxine- ormethoprim, Amoxicillin trihydrate, Nitrofurans
Tôm, Cá da trơn, Cá Hồi
Phát triển vi khuẩn kháng thuốc và tồn lưu trong máu
2 Thuốc gây màu
3 Chất gây ô
Astaxanthin, Canthaxanthin
PCBs, PBDEs
Cá Hồi
Có vấn đề đến tính hiếu
động của trẻ em và mắt.
nhiễm môi trường
4 Thuốc diệt nấm
Dioxins
Malachite green
Cá Hồi Chất gây ung thư
Cá Hồi và cá da
Chất gây ung thư
trơn
5 Biến đổi gen
ở cá
Growth hormones, antifreeze protein
Cá Hồi, Hàu, 2 mảnh vỏ
Gây dị ứng, gây độc, gây
ảnh hưởng ngoài dự kiến.
6 Hormone Bovine growth
hormone (rBGH)
Hai mảnh vỏ (sò, nghêu)
Có liên quan đến ung thư
2.3 Sơ lược các nghiên cứu về thảo dược
Trong lịch sử y học cổ truyền Việt Nam vấn đề nghiên cứu về cây thuốc để trị bệnh cho người và động vật đã có từ thế kỷ 17 do Đại y thiền sư Tuệ Tĩnh với hai tác phẩm “ Nam dược thần hiệu” mô tả 580 vị thuốc trong 3.873 bài thuốc dân gian và
“Hồng nghĩa gia thủ thư” tóm tắt về 680 vị thuốc. Sau đó lương y Lê Hữu Trác tức Hải Thượng Lãn Ông (1720-1791) là tác giả của 30 tập sách về y học cổ truyền Việt Nam. Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đỗ Tất Lợi, đã nghiên cứu và biên soạn cuốn sách “Medicinal Plants and Drugs from Vietnam” dày hơn 1.200 trang về cây thuốc, động vật và khoáng vật làm thuốc ở Việt Nam (Đỗ Tất Lợi Và Nguyễn Xuân Dũng, 1991). Từ đó cho thấy tầm quan trọng của thảo dược trong phòng trị bệnh ở người và động vật và đã được nghiên cứu từ rất lâu.
Đối với NTTS việc sử dụng các hoạt chất có nguồn gốc thực vật trong việc phòng bệnh đã được người dân áp dụng từ rất lâu theo kinh nghiệm. Một số thảo mộc có hoạt chất sinh học có thể sử dụng trong NTTS như: Hành (Allium fistulosum), tỏi (Allium sativum L.) có chất alixin có tác dụng kháng khuẩn mạnh (Đỗ Tất Lợi, 2004; Bùi Quang Tề và ctv. 2006a), hẹ (Allium odorum L.) có chất odorin có tác dụng ức chế vi trùng Staphyllo coccus aureus và Bacillus coli và một số cây dùng trong diệt tạp như dây thuốc cá (Derris elliptica) có chất rotenone, có nhiều trong rễ cây, cỏ sữa lá nhỏ (Euphorbia thymifolia Burm) trong toàn bộ cây có chứa cosmosilin, taraxerol, tirucallol và myrixylacohol có tác dụng ức chế sinh sản của nhiều loài vi trùng (Đỗ Tất Lợi, 2004; Phan Xuân Thanh và ctv, 2003).
Ngày nay trong NTTS đã có những nghiên cứu bàn về tiềm năng sử dụng kháng sinh thảo mộc trong việc phòng và chữa trị bệnh nhiễm khuẩn mà tác giả Nguyễn Thị Vân Thái và ctv. (2006) đã đề cập. Trong đó các chất như: alixin trong tỏi (Bùi Quang Tề, 2006a), odorin trong hẹ, brazilin và sappanin trong tô mộc... đã được sử dụng để trị các bệnh về viêm nhiễm. Bên cạnh đó các chất chiết từ nấm linh chi, hoàng kỳ, sài đất, nhọ nồi, tỏi, kim ngân, lá ổi, gừng và cỏ mực... đã được nghiên cứu sử dụng trong phòng trị bệnh trên động vật thủy sản (Bùi Quang Tề và ctv. 2006a; Ardó et al., 2008; Yin et al., 2006). Ngoài ra còn nêu những nguyên tắc và phương pháp sưu tầm chất kháng khuẩn dùng trong NTTS như: Chọn những thực vật có tính đối kháng với vi khuẩn dựa vào kinh nghiệm dân gian. Thử hoạt tính kháng khuẩn một cách hệ thống theo từng họ thực vật, thông qua đó mà chọn ra những cây có tác dụng tốt nhất. Dügenci et al. (2003) cho rằng một vài cây thuốc như: gừng (Zingiber officinale), cây tầm ma (Viscum album), cây tầm gửi (Urtica dioica) khi bổ sung vào trong thức ăn tạo chất kích thích miễn dịch cho cá giúp ngăn ngừa một số bệnh như virus, vi khuẩn và nấm.
Theo Yin et al. 2008 khi nuôi cá chép kết hợp tiêm vắc-xin và cho ăn 2 loại thảo dược là Hoàng kỳ (Astragalus radix) và Nấm Linh chi (Ganoderma lucidum) làm kích thích hoạt động hô hấp, sự thực bào của bạch cầu trong máu. Cá chép được gây cảm nhiễm với vi khuẩn A. hydrophila có tỷ lệ sống cao. Tỷ lệ sống cao nhất (60%) là nhóm cá có tiêm vắc-xin và được nuôi bằng cả 2 loại thảo dược, trong khi đó hầu như 90% cá đối chứng (kiểm soát âm tính) và 60% cá chỉ được tiêm vắc-xin (kiểm soát dương tính) đã chết.
Trên tôm sú (8 g) bị nhiễm đốm trắng, Citarasu et al. (2006) cho rằng chiết chất Methanolic từ Cỏ gà (Cyanodon dactylon), Aegle marmelos, Dây ký ninh (Tinospora cordifolia), Picrorhiza kurooa và Cỏ mực (Eclipta alba) có tác dụng nâng cao tỷ lệ sống. Methanolic được trộn vào thức ăn với hàm lượng 100, 200, 400 và 800 mg/kg thức ăn và được theo dòi trong 25 ngày. Kết quả đến ngày thứ 7 nghiệm thức không cho ăn Methanolic có tỷ lệ sống thấp hơn so với các nghiệm thức có cho ăn Methanolic. Nghiệm thức cho ăn 800 mg Methanolic/kg thức ăn có tỷ lệ sống 74% khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức cho ăn Methanolic còn lại (p<0,0001). Với tôm sú bị bệnh mềm vỏ do Vibrio spp, theo Bùi Quang Tề và ctv. (2006a) phối hợp chất chiết từ tỏi (Alltium sativum) và sài đất (Weledia calendualacea) có thể phòng trị được bệnh này. Immanuel et al. (2004) báo cáo rằng giàu hóa Artemia bằng butanolic chiết từ thực vật (cây Thầu dầu (Ricinus communis), Diệp hạ châu (Phyllanthus niruri), Húng cay đất (Leucus aspera), Khoai mì (Manihot esculenta)) và rong biển (Rong mơ (Ulva lactuca và Rong nâu (Sargassum wightii)) làm tăng tỷ lệ sống của tôm he Ấn Độ (Penaeus indicus) giai đoạn giống từ 24,4 lên 43,3-58,9%, tốc độ tăng trưởng từ 1,1%/ngày lên 1,46-2,15
%/ngày và giảm nồng độ vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus trong cơ và gan tụy từ 3,71 x105 và 3,86 x105 CFU/g xuống 1,36-2,03 x105 và 1,47-2,16x105 CFU/g.
Tại Trung Quốc, Zheng et al. (2009) chứng minh tinh dầu cây lá thơm orengano (Origanum heracleoticum) thêm vào khẩu phần thức ăn cá Nheo bị nhiễm Aeromonas hydrophila thì cá vẫn tăng trưởng khác biệt có ý nghĩa so với đối chứng (P<0,005) và chức năng gan và các cơ quan nội tạng được cải thiện (P<0,005). Hoạt động chống oxy hóa của cá cũng tăng lên. Kết quả của Jeney et al. (2008) cho thấy trộn thảo dược Hoàng kỳ (Astragalus radix) và Kim ngân (Lonicera japonica) vào thức ăn có thể tăng cường hệ miễn dịch cá chép và rô phi chống lại vi khuẩn A.hydrophila. Theo Yin et al. (2006) bổ sung Hoàng kỳ (Astragalus radix) 0,1-0,5%
vào thức ăn cho cá Rô phi làm tăng lysozyme sau 1 tuần và sau 3 tuần hoạt động thực bào của tế bào thực bào tăng nhưng không tăng hoạt động hô hấp của tế bào thực bào. Còn Hoàng cầm (Scutellaria radix) thì không có tác dụng. Kết quả tương tự trên cá Đỏ dạ (Pseudosciaena crocea), hệ miễn dịch cá được tăng cường và tỷ lệ sống được cải thiện khi cho cá ăn 1-1,5% hỗn hợp Hoàng kỳ (Radix astragali seu Hedysari) và Đương quy (Radix angelicae sinensis) với tỷ lệ 5:1 (Jian and Wu, 2003). Kết quả tương tự khi Jian và Wu (2004) sử dụng 1% hỗn hợp Hoàng kỳ và Đương quy tỷ lệ 5:1 trên cá chép.
Tại Bangladesh, Muniruzzaman và Chowdhury (2004) nghiên cứu tác dụng của chất chiết từ 26 loài thảo dược với 3 vi khuẩn Aeromonas hydrophila, Edwardsiella tarda và Pseudomonas fluoescens gây bệnh trên cá. Kết quả có 21 loài thảo dược (80,76%) có tác dụng với A.hydrophila, 24 loài thảo dược (92,3%) có tác dụng với P.fluoescens và 12 loài thảo dược (46,15%) có tác dụng với E.tarda. Trong các loài thảo dược thì tỏi (Allium satium) có tác dụng chống A.hydrophila và P.fluoescens tốt nhất và lá cây Bồng bồng (Calotropis gigantea) diệt vi khuẩn E.tarda tốt nhất.
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, Dügenci et al. (2003) sử dụng chất chiết từ cây Tầm gửi (Viscum album), cây Tầm ma (Urtica dioica), và cây Gừng (Zingiber officinale) cho cá Hồi (Oncorhynchus mykiss) ăn với khẩu phần 0,1%, 1% và 5% trọng lượng thân/ngày liên tục trong 3 tuần. Kết quả cá ăn thảo dược thì hoạt động hô hấp tăng đáng kể (P<0,0001) so với đối chứng. Đặc biệt khẩu phần cá ăn 1% chất chiết từ cây gừng cho kết quả tăng cường miễn dịch về hoạt động thực bào, tăng cường hô hấp của tế bào bạch cầu và tăng mức protein trong huyết tương. Trong tất cả các nồng độ thảo dược, nồng độ 0,1% của cây gừng là không có tác dụng tăng mức protein trong huyết tương.
Tại miền Nam Ấn Độ, Crasta et al. (1997) đã chiết Acetone và Ethanol từ 5 loài rong biển Rong nho (Caulerpa taxifolia), Rong sợi (Chaetomorpha antennina), Cladophora fascicularis, Rong mơ (Ulva lactuca) và Rong câu (Gracilaria corticata). Kết quả C.taxifolia, C.antennina và G. corticata có khả năng chống lại vi khuẩn Bacillus subtilis. Gracilaria corticata còn có tác dụng chống lại nấm Candida albicans. Nhưng không có chất chiết nào có thể ức chế vi khuẩn Pseudomonas aeurginosa, nấm Aspergillus flavus và Fusarium oxysporum.
Thí nghiệm cho cá Rô phi (Oreochromis niloticus) ăn 2 loại thảo dược Hoàng kỳ (Astragalus membranaceus) và Kim ngân (Lonicera japonica) 0,1% trong 4 tuần. Kết quả cho thấy hệ miễn dịch của cá được tăng cường. Hoạt động đại thực bào, hô hấp của tế bào máu được tăng cường, tỷ lệ sống tăng lên (Ardó et al., 2008). Cũng trên cá Rô phi, Pachanawan et al. (2008) chứng minh có thể sử dụng lá ổi (Psidium guajava) để kiểm soát bệnh do Aeromonas hydrophila gây ra. Vi khuẩn Aeromonas hydrophila gây bệnh trên cá Trê trắng (Clarias batrachus) cũng sẽ được kiểm soát chất chiết từ Xuyên tâm liên (Andrographis paniculata) (Balasundaram and Harikrishnan, 2009). Theo Bùi Quang Tề và ctv. (2006a) phối hợp chất chiết từ tỏi và sài đất cũng có tác dụng tốt để tăng cường hệ miễn dịch cá Tra với mầm bệnh xuất huyết (do A.hydrophila) và mủ gan (do Edwardsiella tarda và Hafnia alvei) gây ra. Theo Harikrishnan et al. (2003) ngâm cá chép đã gây cảm nhiễm A.
hydrophila nồng độ 108 cfu/ml bằng lá Sầu đâu (Azadirachta indica) 1g/l trong 10
phút suốt 30 ngày để kiểm tra sự thay đổi thành phần sinh hóa. Kết quả tế bào bạch cầu, tế bào hồng cầu, mức protein huyết thanh tăng có ý nghĩa thống kê so với cá đối chứng. Tuy nhiên mức glucose, cholesterol và calcium trong huyết thanh giảm dần theo các lần thu mẫu. Trên cá vàng (Carassius auratus) và cá chép gây cảm nhiễm nhân tạo bằng A.hydrophila được ăn kết hợp Probiotics (Lactobacillus sp. và Sporolac sp.) và 3 loại thảo. Kết quả cho thấy cả probiotics và thảo dược điều có tác dụng giúp cá hồi phục tốt sau 24 ngày (Harikrishnan. R and C. Balasundaram, 2009).
Tại Việt Nam, Phan Xuân Thanh và ctv. (2003) đã đánh giá 25 loài cây (tỏi, sài đất, nghệ, bạc hà…) có hoạt chất có tác dụng kháng khuẩn và kháng nấm có thể sử dụng trong phòng trị bệnh thủy sản. Kết quả nghiên cứu còn chiết được chất kháng khuẩn 2-hydroxy 6-pentadeca-trienylbenzoat từ các loài thảo dược trên và thí nghiệm trên tôm sú nuôi, ở nồng độ chất chiết 1-3 ppm có hiệu lực trị bệnh phát sáng, đen mang, vàng mang, đóng rong, hoại tử phụ bộ… và nồng độ 0,5-1 ppm thì có tác dụng phòng bệnh do vi khuẩn, nấm và nguyên sinh động vật gây ra. Bùi Quang Tề (2003) đã nghiên cứu thực nghiệm khả năng chống khuẩn của các thảo dược như tỏi, sài đất, nhọ nồi. Chất tách chiết trên với hoạt chất 10% trộn vào thức ăn phòng được bệnh xuất huyết, đốm trắng cho cá Tra (Bùi Quang Tề, 2006a). Tỏi có tác dụng phòng trị bệnh đường ruột cho tôm sú (Bùi Quang Tề, 2006b). Theo
Nguyễn Mạnh Hùng (2008) dịch chiết từ cây Nemm (Azdirachta indica) có thể thay thế 50% kháng sinh trong sản xuất giống cua biển (Scylla paramamosain).
Gần đây nhất là nghiên cứu của Huỳnh Kim Diệu (2010). Đã sử dụng 30 loại thảo dược thường dùng trong dân gian như: Bán tự mốc (Hemigraphis glaucescens), Bàng (Terminalia catappa), Ổi (Psidium guajava), Từ bi (Pluchea indica)…để thử hoạt tính kháng khuẩn trên 3 loại vi khuẩn E.ictaluri, E.tarda và Aeromonas hydrophila cho thấy các cây thuốc này đều có khả năng kháng khuẩn (MIC=16- 2048 µg/ml). Hoạt phổ mạnh trên cả 3 loại vi khuẩn là Bàng, Ổi, Trầu không, Tràm (MIC=64-512 µg/ml). Tác động mạnh nhất trên E.ictaluri là Sâm đại hành (MIC=16
µg/ml), E.tarda là Rau mương (MIC=32 µg/ml), Aeromonas hydrophila là Bàng (MIC=128 µg/ml).
2.4 Thành phần hóa học và tác dụng dược lý cây Hoàng kỳ
Hình 2.4: Rễ và thân cây Hoàng kỳ. (Nguồn http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com/)
Thành phần hóa học của cây hoàng kỳ
Theo Y học cổ truyền Việt Nam trong Hoàng kỳ có Cholin, Betain, nhiều loại Acid Amin và Sacarosa, Glucosa, tinh bột, chất nhầy, gôm, hơi có phản ứng Alcaloid. Ngoài ra còn có nhiều loại Acid Amin, Protid (6,16- 9,9%), Cholin, Betain, Acid Folic, Vitamin P, Amylase, Palmatic acid, Linoleic acid, Linolenic acid, Coriolic acid.
Theo Đỗ Tất Lợi (2004) cho rằng Hoàng kỳ (Astragalus membranaceus (Fish) Bunge) là một cây sống lâu năm, cao 50-80 cm, rễ cái dài và mọc sâu, rất khó bẻ, đường kính 1-3 cm, vỏ ngoài màu vàng đỏ hay nâu và là bộ phận chính dùng làm thuốc. Trong hoàng kỳ có cholin betain, nhiều axit amin và sacaroza. Cho đến nay chúng ta vẫn phải nhập hoàng kỳ của Trung Quốc, mặc dù đã được trồng thử nghiệm trong nước cho kết quả tốt nhưng chưa đưa vào trồng phổ biến.
Tác dụng dược lý của cây Hoàng kỳ
Theo Y học cổ truyền Việt Nam cho rằng Hoàng kỳ có tác dụng làm tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể bằng cách làm tăng chức năng thực bào của hệ thống tế bào lưới, ngoài ra còn có khả năng làm cho tế bào tương của lách súc vật tăng sinh, thức đẩy sự hình thành kháng thể và nâng cao tính miễn dịch thể dịch. Bên cạnh đó còn thúc đẩy quá trình chuyển hóa trong cơ thể như chuyển hóa sinh lý tế bào bằng cách điều chỉnh cAMP và cGMP trong tế bào, thúc đẩy sự chuyển hóa protid của huyết thanh và gan.
Theo Đỗ Tất Lợi (2004). Một số tác dụng dược lý của hoàng kỳ đã được ghi nhận: kéo dài chu kỳ động kinh của chuột bạch, tăng sự co bóp của tim, lợi tiểu, có tác dụng như kháng sinh (đối với vi trùng lị Shiga) trong ống nghiệm.