Sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong Hồng Đức Quốc âm thi tập - 2

do người đời sau sưu tập, trong đó có một số là thơ nhà vua, còn lại một số nhiều là thơ của văn thần nhưng không ghi tên ai cả, nên hóa ra khuyết danh. Đây là tập thơ quốc âm duy nhất ở thế kỷ XV hiện còn lại cùng với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi” [8, tr.246]. Chính điều đó đã thôi thúc tôi tìm hiểu tác phẩm và đi sâu nghiên cứu đề tài này.

Các tác giả cuốn Văn học trung đại Việt Nam tập 1 do Nguyễn Đăng Na chủ biên đã đưa ra những đánh giá khái quát về tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập như sau: “Thời đại Hồng Đức không những đánh dấu giai đoạn hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam mà còn ghi một cột mốc lớn trên con đường phát triển của lịch sử văn học dân tộc với sự ra đời của tập thơ mang chính tên thời đại đó” [7, tr.158]. Về mặt nội dung các tác giả cũng đưa ra nhận xét: “đồng thời mở rộng những nội dung Nho giáo, khẳng định đề cao vương triều phong kiến” [7, tr.157]. Nhận xét đề cập tới tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm và trong thời đại mà nó ra đời tuy nhiên chỉ mang tính chất lướt qua. Điều này gợi ý tôi đi sâu vào thực hiện đề tài này.

Cuốn giáo trình Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX của Nguyễn Phạm Hùng đã nhận định: “Một bộ phận văn học nửa sau thế kỷ XV đi vào xu hướng cung đình hóa rò rệt. Có lẽ không thời kỳ nào văn học cung đình gặt hái được nhiều thành tựu như thời kỳ này. Văn học cung đình, một mặt thể hiện được sự trì trệ và máy móc của nghệ thuật khi quá đi sâu vào tán tụng và tiểu xảo, một mặt nó tự xác lập được những giá trị nhất định trong nội dung tư tưởng và nghệ thuật phản ánh, mà không thời nào có được, như những phẩm chất đặc định cho văn học một thời kỳ. Tác gia tiêu biểu nhất là Lê Thánh Tông” [4, tr.56]. Cùng với đó, theo Nguyễn Phạm Hùng: “Lê Thánh Tông thành công hơn cả ở thơ Nôm. Tác phẩm nổi tiếng của ông là tập Hồng Đức quốc âm thi tập… Tập thơ thể hiện tâm trạng hào sảng của một vị vua thời thịnh mang niềm tự hào trước lịch sử dân tộc, trước non sống gấm vóc, ca

tụng vương quyền, ca tụng cuộc sống thái bình, bày tỏ lòng quan tâm tới đời sống muôn dân… Nghệ thuật thơ trau chuốt điêu luyện, có tính dân tộc, giàu sắc thái dân dã. Song nhiều khi thơ ông quá cầu kỳ, đơn điệu, sáo rỗng. Song dù sao, đây cũng là một tập thơ lớn, đánh dấu trình độ phát triển cao của nghệ thuật tiếng Việt, trong việc phô diễn không chỉ đời sống thô tục, mà cả đời sống cao nhã, sang quý bên trên” [4, tr.72]. Ý kiến của tác giả cuốn giáo trình tuy rất khái quát nhưng cũng có những nhận xét khá chính xác về tập thơ. Vẫn là những nhận xét quen thuộc về nội dung và nghệ thuật tác phẩm, chưa có sự nghiên cứu sâu lý giải nội dung tác phẩm được chi phối bởi tư tưởng Nho giáo.

Cuốn sách chuyên luận “Lê Thánh Tông, về tác gia và tác phẩm” của nhiều tác giả, ở phần 4 có tiêu đề “Lê Thánh Tông – Thơ văn quốc âm” có nhiều bài viết đề cập tới tập thơ. Trong số đó thì có các bài viết của Trương Chính, Bùi Văn Nguyên, Bùi Duy Tân, Vương Lộc là những bài nghiên cứu toàn diện về tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập.

Nguyễn Hữu Sơn trong chuyên luận Văn học trung đại Việt Nam, quan niệm con người và tiến trình phát triển có bài viết với tiêu đề: “Lê Thánh Tông - đời thơ và những dấu hiệu trữ tình” đã nhận xét như sau: “Con người Lê Thánh Tông phân hóa trong thơ khá rò nét: Ông vừa hướng thượng đóng vai một vị hoàng đế để có những bài thơ thắng thưởng vịnh đề đầy tính khoa trương…; vừa phần nào bộc lộ tâm sự riêng… lại bày tỏ thái độ cảm thông với các tầng lớp chúng sinh” [14, tr.181].

Đó là một số sách giáo trình nghiên cứu về Lê Thánh Tông, về cuốn Hồng Đức quốc âm thi tập. Bên cạnh đó còn có các sách tham khảo về lịch sử cũng tạo nên một cái nhìn đầy đủ hơn về tác phẩm bởi bất cứ một tác phẩm văn học nào cũng gắn với giai đoạn lịch sử mà nó ra đời. Cuốn Những giai thoại về vua Lê Thánh Tông do Nguyễn Tá Nhí và Mai Xuân Hải biên soạn,

trong giai thoại số 8 có tiêu đề Rộng cửa dùng người tài đã chép một bài thơ chữ Nôm của Lê Thánh Tông viếng trạng nguyên Nguyễn Trực khi ông này qua đời. Giai thoại số 28 có tiêu đề Thơ điếu Vũ Nương, người biên soạn không chỉ kể lai lịch mà còn chép đầy đủ hai bài thơ Nôm của vua Lê Thánh Tông viếng nàng Vũ Thị Thiết. Những người biên soạn không bình luận gì cả nhưng việc sưu tầm và chép những bài thơ đó cho thấy rằng tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập có vị trí đặc biệt trong sự nghiệp sáng tác văn học của vị hoàng đế anh minh. Cùng với đó là cuốn Sách các triều đại Việt Nam của Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng ở mục triều Lê Sơ có các giới thiệu về Lê Thánh Tông trong đó trích dẫn bài thơ Tự thuật trong phần Nhân đạo môn để minh họa cho phẩm chất đạo đức tuyệt vời của vua Lê Thánh Tông: “chính bản thân Lê Thánh Tông cũng rất tự ý thức về sự cần mẫn chăm lo trau dồi tri thức bỏ công sức của mình vào việc cai quản đất nước” [1, tr.184]. Những lời ngợi ca hết mực về Lê Thánh Tông, về thời đại Hồng Đức khiến người đọc không thể không đặt ra câu hỏi: Do đâu mà có một thời đại thịnh trị, vua sáng và tôi hiền đến vậy? Việc đi tìm hiểu sự ảnh hưởng của Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập sẽ giúp chúng ta tìm ra câu trả lời chính xác nhất.

Bên cạnh đó còn có các luận văn đại học nghiên cứu về giá trị Hồng Đức quốc âm thi tập, tiêu biểu như các đề tài: “Tìm hiểu giá trị của phần Phong cảnh môn trong Hồng Đức quốc âm thi tập” hay đề tài: “Lý tưởng thẩm mỹ trong Hồng Đức quốc âm thi tập qua phần Nhân đạo môn”… Cùng với đó còn rất nhiều các bài viết in trên tạp chí và các bài viết trên mạng Internet nghiên cứu về tác giả và tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập.

Tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập là thứ văn chương “máu mủ ruột rà” của dân tộc ta cần phải được tất cả công chúng nghiên cứu thưởng thức. Đã có rất nhiều nghiên cứu về tập thơ này. Đó là những nghiên cứu về giá trị của từng môn loại trong tập thơ, nghiên cứu về phong cách nghệ thuật thơ,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 73 trang tài liệu này.

nghiên cứu về giá trị nội dung tập thơ, về vị trí của tập thơ trong tiến trình phát triển thơ Nôm dân tộc ta… Mỗi nghiên cứu đều có những thế mạnh và đặc sắc riêng và đều mang giá trị sâu sắc. Qua việc tìm hiểu đó, thấy được một vấn đề đặc biệt là giá trị của tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng tới nội dung tác phẩm, tôi đi vào thực hiện khóa luận với đề tài: “Sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập” với hi vọng đem tới một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về tập thơ. Tuy nhiên, các tài liệu đã có ở trên là cơ sở quan trọng tạo nền tảng chỗ dựa để tôi đi vào nghiên cứu đề tài này.

3. Mục đích nghiên cứu

Sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong Hồng Đức Quốc âm thi tập - 2

Đề tài hướng tới những mục đích sau:

- Góp phần tìm hiểu về Lê Thánh Tông và Hội Tao đàn.

- Có được cái nhìn sâu sắc nhất về sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập nói riêng và văn học trung đại Việt Nam dưới thời Lê Thánh Tông nói chung.

4. Đối tượng nghiên cứu

Triển khai khóa luận “Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập”, người viết xác định những ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong phương diện nội dung và nghệ thuật của tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập là đối tượng nghiên cứu.

5. Phạm vi nghiên cứu

Khóa luận nghiên cứu trong phạm vi tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập do hai nhà nghiên cứu Phạm Trọng Điềm và Bùi Văn Nguyên phiên âm, chú giải, giới thiệu, biên soạn, xuất bản năm 1982, Nhà xuất bản Văn học. Tác phẩm gồm 328 bài thơ, được chia thành 5 phần: Thiên địa môn, Nhân đạo môn, Phong cảnh môn, Phẩm vật môn, Nhàn ngâm chư phẩm.

6. Phương pháp nghiên cứu

Để đảm bảo cho công việc nghiên cứu khóa luận đồng thời để có nguồn tư liệu phong phú và đủ tin cậy đáp ứng được mục đích đặt ra, người viết tiến hành những phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp thống kê phân loại.

- Phương pháp phân tích tổng hợp.

- Phương pháp văn học sử.

- Phương pháp so sánh, thẩm định.

7. Bố cục khóa luận

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được cấu trúc thành 2 chương:

Chương 1: Khái quát về những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và tác giả, tác phẩm Hồng Đức quốc âm thi tập

Chương 2: Dấu ấn Nho giáo trong Hồng Đức quốc âm thi tập

NỘI DUNG

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO VÀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM

HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP

1.1. Những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng đến văn học Việt Nam

Cơ sở của Nho giáo bắt nguồn từ Trung Quốc, được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu xã hội loạn lạc, Khổng Tử ( sinh năm 551 trước công nguyên ) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau gọi ông là người sáng lập ra Nho giáo. Thông qua những ghi chép của học trò Khổng Tử và sự hệ thống lại của các nhà nghiên cứu, người đời sau đã nắm bắt được một cách gián tiếp những tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử. Nho giáo phát triển qua ba thời kì: Nho giáo nguyên thủy, Hán Nho, Tống Nho.

Những tư tưởng của Nho giáo được thể hiện trong hai bộ sách kinh điển: Tứ Thư Ngũ Kinh. Hệ thống kinh điển đó hầu như viết về chính trị, xã hội, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rò xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, đạo đức là những tưởng cốt lòi của Nho giáo. Khổng Tử và các học trò của ông đã thấy được sức mạnh và vai trò to lớn của Nho giáo đối với xã hội. Tư tưởng cơ bản của Nho giáo nằm ở hai nội dung là tu thân và hành đạo.

Trước hết, về vấn đề tu thân, một loạt những tư tưởng tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức,… được Khổng Tử đặt ra để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội an bình chỉ khi mọi người giữ được tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức. Theo Khổng Tử, đạo là năm mối quan

hệ xã hội cơ bản của con người được gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn – bè. Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản nhất, Đổng Trọng Thư gọi là tam cương – ba sợi dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia đình đến ngoài xã hội. Tam cương: tam là ba, cương là giềng mối. Tam cương là ba mối quan hệ: quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng). Trong xã hội phong kiến, những mối quan hệ này được vua chúa thiết lập dựa trên một loạt nguyên tắc bắt buộc phải tuân thủ vô cùng chặt chẽ nghiêm ngặt. Thứ nhất đối với mối quan hệ quân thần, “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” nghĩa là dù vua ra lệnh cho bề dưới phải chết thì bề dưới cũng phải chết để làm đúng theo lệnh vua, nếu bề dưới không phục tùng mệnh lệnh tức là không trung thành với vua. Trong mối quan hệ này, vua phán xét thưởng phạt luôn phân minh còn bề dưới thì nhất mực trung thành một lòng một dạ. Bên cạnh đó là mối quan hệ phụ tử, “phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” nghĩa là cha khiến con chết, con không chết là con bất hiếu. Nếu như lệnh của vua đối với bề tôi đặt chữ “trung” lên hàng đầu, thì giữa cha con coi trọng chữ “hiếu” hơn tất cả. Mối quan hệ cuối cùng trong tư tưởng “tam cương” là phu phụ, “phu xướng phụ tùy” đồng nghĩa với việc chồng nói, vợ phải theo. Tư tưởng “tam cương” chính là cương lĩnh đạo đức, là chuẩn mực của các mối quan hệ xã hội mà Nho giáo đề ra. . Đức chính là phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần phải có để thực hiện tốt các mối quan hệ cơ bản trên.

Gắn liền với tam cương là ngũ thường. Ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có khi sống trong đời của một người quân tử: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Nhân là tấm lòng yêu thương muôn loài trên còi đời này. Lễ là sự kính trọng, lịch sự trong cách cư xử với mọi người. Nghĩa là đối xử với những người xung quanh bình đẳng, công minh theo đúng lẽ phải. Trí là sự hiểu biết, hanh thông lí lẽ, biết phân biệt thiện ác, tốt xấu, đúng sai.

Còn tín là luôn đáng tin cậy trong mọi lời nói, hành động. Những phạm trù này đều là chuẩn mực đạo đức làm người, là thước đo đánh giá phẩm hạnh của con người.

Nếu như Nho giáo đề ra những nguyên tắc nhất định cho người quân tử thì bên cạnh đó, Nho giáo cũng không quên đặt ra một loạt những tư tưởng đạo đức khắt khe và nghiêm ngặt dành cho chuẩn mực đạo đức của một người phụ nữ trong xã hội bấy giờ, đó là tam tòng và tứ đức. Tam là ba, tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo gồm: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Tại gia tòng phụ là người phụ nữ khi còn ở nhà thì theo cha. Xuất giá tòng phu là lúc lấy chồng phải theo chồng. Phu tử tòng tử là chồng qua đời thì phải theo con. Từ lẽ ấy, Nho giáo quy định cả cuộc đời bất kì một người phụ nữ nào đều đứng sau và phụ thuộc vào người đàn ông là cha, chồng, con. Bên cạnh đó, họ còn phải tuân theo tư tưởng tứ đức. Tứ là bốn, đức là đức tính tốt. Tứ đức là bốn đức tính quý báu người phụ nữ phải có là: công – dung – ngôn – hạnh. Công là khéo léo trong việc làm. Dung là dung dị, nhã nhặn trong sắc diện. Ngôn là tế nhị, mềm mại trong lời nói. Còn hạnh là đức hạnh, phẩm hạnh và những tính nết tốt. Tất cả là khuôn vàng, thước ngọc để đánh giá phẩm hạnh của người phụ nữ.

Sau khi tu thân, bậc quân tử phải hành đạo, tức là phải ra làm quan, góp sức cai quản chính trị xã hội. Cụ thể của việc hành đạo là “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Nghĩa là phải thực hiện tốt từ những việc nhỏ trong gia đình cho tới những việc lớn ngoài thiên hạ. Hai phương châm được coi là kim chỉ nam chi phối mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là nhân trị và chính danh. Trước hết, về nhân trị, nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, yêu thương con người. Quan điểm này của Nho giáo đồng nhất và phù hợp với lối sống nhân đạo tình nghĩa của dân tộc Việt Nam. Trong luân lý đạo đức, nhân được coi là điều cao nhất. Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử

Xem tất cả 73 trang.

Ngày đăng: 07/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí