Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - 2

nói riêng chưa được quy định đầy đủ, nhất là điều kiện thực hiện các quyền.

Ở khía cạnh quan hệ hôn nhân và gia đình thấy rằng quyền sử dụng đất là một quyền tài sản có giá trị lớn, phần lớn các giao dịch liên quan đến đất đai trong quan hệ kinh doanh thương mại lại gắn liền với chủ thể là vợ chồng. Những giao dịch đó không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật đất đai mà nó còn phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, nghiên cứu một cách tổng quát, quan hệ biện chứng giữa hai chế định trên nhằm đưa ra những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền sử dụng đất dưới góc độ là tài sản của vợ chồng là thiết thực, có ý nghĩa thực tiễn cao. Vì lí do trên nên tôi đã chọn đề tài “Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là vợ chồng theo pháp luật Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Trong những năm gần đây, đã có một số đề tài nghiên cứu về vấn đề quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất nói chung và chế độ tài sản của vợ chồng như: Pháp luật về quyền của người sử dụng đất đã được đề cập trong: Nguyễn Ngọc Điện

– Tiến sĩ Luật học (1999), Nghiên cứu về tài sản trong Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh; Nguyễn Quang Tuyến (2003), Địa vị pháp lý của người sử dụng đất trong các giao dịch dân sự, thương mại về đất đai, Luận án tiến sĩ luật học; TS.Thẩm phán Nguyễn Văn Cường, TS Nguyễn Minh Hằng (2011), Giao dịch về quyền sử dụng đất vô hiệu, pháp luật và thực tiễn xét xử, Nxb thông tin và truyền thông; PGS.TS. Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Nxb chính trị quốc gia – sự thật; Cao Thu Phương(năm 2011), Sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản theo pháp luật Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học ; PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Nhung (2014), Bàn về quyền sử dụng đất được phép chuyển nhượng trong kinh doanh bất động sản ở Việt Nam, tạp chí Luật học số 6/2014, tr.40 – 47; Jack Thurston (December, 2006), The Fat of the Land, Prospect Magazine; Kevin Cahill (2006), Who owns the world: the hidden facts behind the landownership?, Mainstream Publishing.… Bên cạnh đó, có rất nhiều các bài báo, bài nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí, báo viết, báo mạng và phương tiện thông tin đại chúng khác về những nội dung liên quan đến chế độ tài

sản của vợ chồng, địa vị pháp lí của người sử dụng đất,…. Nhìn chung những công trình nghiên cứu trên đã góp phần tạo nên những cơ sở lý luận và chỉ ra được những vấn đề thực tiễn cho việc thực hiện các các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Tuy nhiên, các đề tài trên chỉ mới dừng lại ở quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất nói chung hay chế độ tài sản của của vợ chồng mà chưa phân tích chuyên sâu vào quyền sử dụng đất dưới góc độ là quyền tài sản của vợ chồng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của đề tài: trên cơ sở lí luận, các qui định pháp luật cùng thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, chế độ tài sản của vợ chồng mà từ đó tìm hiểu những bất cập, chưa phù hợp với tình hình thực tiễn cũng như xu hướng phát triển của xã hội để có những nhận xét, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là vợ chồng theo pháp luật Việt Nam.

Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:

Thứ nhất: nghiên cứu lý luận chung về quyền sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, chế độ tài sản của vợ chồng. Đây là cơ sở lý luận cơ bản để hình thành các qui định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là vợ chồng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.

Thứ hai: nghiên cứu các qui định hiện hành về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất nói chung và chủ thể là vợ chồng nói riêng. Luận văn đi sâu vào nghiên cứu quyền sử dụng đất là tài sản hình thành trong thời kì hôn nhân hợp pháp của vợ chồng. Đặc biệt trú trọng vào các quyền năng như quyền chuyển nhượng, góp vốn, thế chấp quyền sử dụng đất. Tham khảo một số qui định của pháp luật thế giới về việc pháp luật đất đai. Trên cơ sở thực tiễn xét xử ở Tòa án Đống Đa, Hà Nội để rút ra những bất cập, hạn chế của qui định pháp luật.

Thứ ba: tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là vợ chồng.

Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - 2

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ một bản luận văn thạc sỹ, với khả năng nghiên cứu và nguồn tài liệu còn hạn chế, luận văn chưa thể nghiên cứu bao quát hết các vấn đề về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng là vợ chồng mà chỉ dừng lại ở những tiếp cận,

nghiên cứu dưới góc độ quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng có thể đưa vào lưu thông, sản xuất và kinh doanh.

Luật văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cũng như qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành, có so sánh với các qui định pháp luật cũ. Thông qua hoạt động thực tiễn xét xử của Tòa án mà từ đó tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện về chế định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là vợ chồng với tư cách là tài sản có giá trị được đưa vào hoạt động kinh doanh thương mại.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu và hoàn thiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê.

Đặc biệt luận văn chủ yếu được nghiên cứu dưới phương pháp phân tích và so sánh. Tức là phân tích các qui định pháp luật về địa vị pháp lí của người sử dụng đất, về chế định tài sản của vợ chồng. Phân tích việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn đời sống. Song song với đó có sự so sánh với những qui định của pháp luật nước ngoài để thấy những điểm tương đồng cũng như sự khác biệt giữa hệ thống pháp luật các nước khi qui định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là vợ chồng.

Việc sử dụng phương pháp so sánh, nghiên cứu giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn toàn diện cũng như qua đó kham khảo và đưa ra được những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là vợ chồng theo pháp luật Việt Nam.

6. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp mới của đề tài

Đây là công trình nghiên cứu có tính hệ thống và chuyên sâu về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là vợ chồng theo pháp luật Việt Nam. Dưới góc độ lý luận và thực tiễn luận văn làm sáng tỏ được các khái niệm, đặc điểm, những vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật. Luận văn có cái nhìn tổng quát về chế định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, chế định về tài sản của vợ chồng. Quá trình nghiên cứu có tham khảo chế định pháp luật của một số nước trên thế giới, phân tích, đánh giá các báo cáo xét xử, thống kê của các cơ quan nhà nước.

Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thời điểm phát sinh hiệu lực của giao dịch đất đai, về đăng kí biến động đất đai, về quyền xử lý tài sản thế chấp, về cách tính thuế thu nhập do chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực cho mọi cá nhân, đặc biệt là các cặp vợ chồng trong việc giao dịch quyền sử dụng đất. Từ đó, góp phần thực hiện pháp luật, xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương với kết cấu nội dung nghiên cứu như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là vợ chồng

Chương 2: Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là vợ chồng

Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là vợ chồng

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT LÀ VỢ CHỒNG


1.1. Tổng quan về người sử dụng đất

1.1.1. Khái niệm người sử dụng đất

Xem xét ở góc độ lý luận, khái niệm người sử dụng đất được xác định dựa trên hai tiêu chí cơ bản:

Tiêu chí thứ nhất: căn cứ vào cơ sở pháp lý làm phát sinh quyền sử dụng đất (tiêu chí pháp lý). Một tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được xác định là người sử dụng đất khi được Nhà nước cho phép sử dụng đất thông qua một trong các hình thức sau đây:

- Được Nhà nước giao đất (giao đất không thu tiền sử dụng đất; giao đất có thu tiền sử dụng đất);

- Được Nhà nước cho thuê đất (cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm; cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê);

- Được Nhà nước cho phép nhận chuyển quyền sử dụng đất (thông qua các giao dịch chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, thế chấp và góp vốn bằng quyền sử dụng đất);

- Được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp (cấp GCN quyền sử dụng đất cho các trường hợp đang sử dụng đất ổn định, lâu dài và không có tranh chấp).

Tiêu chí thứ hai: căn cứ vào thực tế sử dụng đất (tiêu chí thực tế). Người sử dụng đất là những người đang sử dụng đất trên thực tế [62, tr.180]

Tuy nhiên việc dựa vào một trong hai tiêu chí này để xác định thế nào là người sử dụng đất thì sẽ nảy sinh một số vấn đề. Nếu chỉ căn cứ vào việc được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất để xác định người sử dụng đất sẽ dẫn đến việc bỏ qua đối tượng thuê đất. Trên thực tế, đất được hình thành từ hình thức cho thuê lại khá phổ biến. Nên nếu chỉ căn cứ qua các hình thức trên thì đối tượng thuê lại đất của người sử dụng sẽ không được xem là người sử dụng đất. Ngược lại, nếu dựa vào tiêu chí sử dụng đất

thực tế sẽ dẫn đến việc những người sử dụng đất hợp pháp (được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất hay nhận chuyển quyền sử dụng đất) và người sử dụng đất bất hợp pháp (lấn, chiếm đất đai; mua bán, chuyển nhượng đất đai trái phép; sử dụng đất sai mục đích...) đều được hưởng quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Điều này sẽ tạo ra sự không phù hợp trên thực tế.

Theo qui định tại Điều 5 Luật đất đai năm 2013 thì: Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất” [45, Điều 5]. Người sử dụng đất theo qui định tại Điều 5 Luật đất đai năm 2013 có thể là hộ gia đình, cá nhân trong nước; Tổ chức trong nước gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị

- xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức sự nghiệp công lập và tổ chức khác theo quy định của pháp luật về dân sự (sau đây gọi chung là tổ chức); Cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư tương tự có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ; Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và cơ sở khác của tôn giáo; Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức năng ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ chức thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại diện của tổ chức liên chính phủ…

Từ qui định trên thấy rằng khái niệm người sử dụng đất phải được xây dựng trên hai cơ sở là lý luận và thực tiễn. Bởi vì, đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Tuy nhiên, cần phải hiểu khái niệm người sử dụng đất được đề cập ở đây không chỉ là người được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất để trực tiếp sử dụng (trực tiếp khai thác các thuộc tính có ích của đất) mà còn bao gồm cả những người được giao đất, cho thuê đất... song không trực tiếp khai thác, sử dụng đất mà đóng vai trò là người tổ chức quá trình sử dụng đất, như: bỏ vốn, công nghệ đầu tư vào đất đai, thuê người lao động v.v.

Qua những phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm về người sử dụng đất như sau: Người sử dụng đất là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước cho phép sử dụng đất bằng một trong các hình thức giao đất, cho thuê đất, cho phép nhận chuyển quyền sử dụng đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất; có quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định trong thời hạn sử dụng đất.

1.1.2. Nguyên tắc sử dụng đất

Điều 4 Luật đất đai năm 2013 một lần nữa lại khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng cho người sử dụng đất theo qui định của Luật này” [45, Điều 4]. Nhà nước đảm bảo cho người sử dụng đất thông qua những hình thức như cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản trên đất; Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối có đất để sản xuất; đồng thời có chính sách ưu đãi đầu tư, đào tạo nghề, phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho lao động ở nông thôn phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên ngoài những đảm bảo của Nhà nước được ghi nhận trong pháp luật đất đai thì Nhà nước cũng đưa ra những nguyên tắc đối với người sử dụng đất để đảm bảo cho quyền đại diện chủ sở hữu của mình và đảm bảo cho việc sử dụng đất đai được hiệu quả, bền vững, lâu dài theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Không chỉ quy định những đảm bảo cho người sử dụng đất, Điều 6 Luật đất đai năm 2013 còn xác định các nguyên tắc sử dụng đất nhằm định hướng cho việc sử dụng đất, tránh tình trạng sử dụng đất bừa bãi, lãng phí, sai mục đích... gây thiệt hại đến tài nguyên đất đai - nguồn nội lực, nguồn vốn to lớn để phát triển đất nước [45, Điều 6]. Theo đó, việc sử dụng đất phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:

- Đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và đúng mục đích sử dụng đất; Không phải ngẫu nhiên nguyên tắc này được đặt lên hàng đầu trong sử dụng

đất, bởi lẽ, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chính là sự định hướng, thể hiện quan điểm, chiến lược quản lý và sử dụng đất trong tương lai của Nhà nước. Việc sử dụng đất theo đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất sẽ đảm bảo đất đai được sử dụng có hiệu quả và bền vững. Không chỉ sử dụng đất đai đúng quy hoạch, kế hoạch mà người sử dụng đất còn phải sử dụng đất đúng mục đích. Việc sử dụng đất đúng mục đích sẽ góp phần duy trì và củng cố trật tự quản lý đất đai đã được Nhà nước xác lập.

- Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh;

Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn và vô cùng quý giá nên việc sử dụng đất đai tiết kiệm, có hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ vì lợi ích trước mắt của chính người sử dụng đất mà còn vì lợi ích lâu dài của các thế hệ tương lai. Hơn nữa, thực hiện tốt nguyên tắc này còn góp phần thiết thực vào việc bảo vệ môi trường sống của con người.

- Người sử dụng đất thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Theo Điều 166 Luật đất đai năm 2013, người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất [45, Điều 166]. Hơn nữa, người sử dụng đất còn được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định. Quyền được lựa chọn hình thức giao đất, thuê đất. Quyền năng này vẫn được Luật đất đai năm 2013 kế thừa Luật đất đai năm 2003. Điều này thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với quyền tự do lựa chọn hình thức sử dụng đất cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của người sử dụng. Đây là một minh chứng cho việc pháp luật đất đai luôn luôn quan tâm và bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sử dụng đất của người sử dụng đất. Hơn nữa, quy định này ra đời đáp ứng được các đòi hỏi của việc sử dụng đất trong điều kiện kinh tế thị trường.

Xem tất cả 107 trang.

Ngày đăng: 09/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí