Nội Dung Cơ Bản Của Công Ước Quốc Tế Về Quyền Của Người Khuyết Tật

dân sự, chính trị; Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cũng chưa có quy định cụ thể về quyền của người khuyết tật. Vì lẽ đó, việc xây dựng một công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật là đòi hỏi tất yếu khách quan, là tiếng gọi từ lương tri của nhân loại.

1.3.4.2. Nội dung cơ bản của Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật

Nêu lên những nguyên tắc cơ bản về quyền con người đã được ghi nhận tại Hiến chương Liên hợp quốc (1945), Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị; Công ước quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966) và các công ước quốc tế khác về quyền con người. Các nguyên tắc đó thừa nhận phẩm giá, các quyền bình đẳng, quyền không bị phân biệt đối xử, tính phổ biến, thống nhất và phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các quyền tự do cơ bản của con người trong đó có người khuyết tật.

Các quyền cụ thể được quy định trong các điều, từ Điều 9 đến Điều 30, đó là: Quyền tiếp cận; Quyền được sống; Quyền được bảo vệ trong những tình huống rủi ro và thảm họa nhân đạo; Quyền bình đẳng trước pháp luật; Quyền tiếp cận tư pháp; Quyền tự do và an ninh thân thể; Quyền không bị tra tấn, đối xử hay trừng trị hạ nhục, tàn tệ và phi nhân tính hoặc tàn bạo khác; Quyền không bị bóc lột, bị bạo lực hay lạm dụng; Quyền được bảo vệ sự toàn vẹn thân thể v.v...

Các quy định về cơ chế giám sát, thủ tục, các điều khoản thi hành, thực hiện Công ước là những nội dung được thể hiện rõ từ Điều 31 đến Điều 50.

1.3.4.3. Ý nghĩa sự ra đời của Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật

Sự ra đời của Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật đánh dấu một mốc son trong lịch sử nhân quyền của nhân loại. Bởi nó là công ước nhân quyền đầu tiên được ra đời vào vào thế kỷ XXI dành riêng cho nhóm những người yếu thế nhất trong xã hội, đó là người khuyết tật. Công ước ra đời không

chỉ đáp ứng sự mong mỏi của 650 triệu người khuyết tật, mà còn đáp ứng sự đợi chờ của tất cả những ai có lương tri trên trái đất này. Công ước là kết quả phấn đấu không mệt mỏi của các tổ chức chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức vì người khuyết tật và của chính người khuyết tật. Sự hiện diện của Công ước đưa ra thông điệp rằng: thế giới ngày nay bên cạnh những vụ khủng bố; các cuộc thảm sát vì xung đột sắc tộc, tôn giáo đẫm máu… vẫn tồn tại các cuộc thương lượng, đàm phán vì mục đích cao cả, vì lý tưởng có một cuộc sống hòa bình nhân ái, bao dung, bình đẳng và hạnh phúc cho mọi người.

Công ước đưa ra các quy định ngăn cấm sự can thiệp tùy tiện, trái pháp luật vào đời sống riêng tư, gia đình của người khuyết tật; xóa bỏ những rào cản ngăn trở người khuyết tật tiếp cận, hưởng thụ quyền và hòa nhập cộng đồng. Người khuyết tật sẽ được quan tâm chăm sóc sức khỏe; được hưởng thụ quyền giáo dục; có việc làm; cuộc sống được bảo đảm; được bảo vệ về mặt xã hội; có cuộc sống tự lập và tham gia bình đẳng vào đời sống chính trị - xã hội.

Việt Nam là thành viên thứ 118 tham gia ký Công ước vào tháng 10/2007.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.


1.4. Điều chỉnh pháp luật về người khuyết tật và quyền của người khuyết tật

Quyền của người khuyết tật nhìn từ góc độ lịch sử, văn hóa, pháp lý và thực tiễn - 5

1.4.1. Điều chỉnh pháp luật về người khuyết tật

Điều chỉnh pháp luật về người khuyết tật là quá trình thực hiện sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội liên quan đến người khuyết tật. Các quan hệ xã hội liên quan đến người khuyết tật ở Việt Nam từ phong kiến đến đương đại điều được sự điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật thông qua các giai đoạn:

Giai đoạn 1: xây dựng pháp luật về người khuyết tật. Giai đoạn 2: áp dụng pháp luật về người khuyết tật.

Giai đoạn 3: xuất hiện các quan hệ pháp luật mà nội dung của nó là xuất hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể bao gồm người khuyết tật, nhà nước và cá nhân, tổ chức liên quan.

Giai đoạn 4: người khuyết tật thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình trong thực tế.

Thời phong kiến Việt Nam, các quan hệ xã hội liên quan đến người khuyết tật chủ yếu được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật của nhà nước phong kiến. Nổi bật trong số đó là Bộ luật Hồng Đức.

Thời kỳ trước cách mạng tháng 8 năm 1945, nước ta chịu sự đô hộ của thực dân pháp do vậy các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong thời gian này chủ yếu theo sự thống trị của thực dân đô hộ.

Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, cơ chế điều chỉnh các quan hệ xã hội về người khuyết tật mới chính thức được xác lập lại ở Việt Nam thông qua hệ thống pháp luật. Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1990, 1992 và Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2001 đều khẳng định người khuyết tật là công dân, thành viên của xã hội, có quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân, được chung hưởng thành quả xã hội. Vì khuyết tật, người khuyết tật có quyền được xã hội trợ giúp để thực hiện quyền bình đẳng và tham gia tích cực vào đời sống xã hội, đồng thời vì khuyết tật họ được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân. Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10, ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa 10, kỳ họp thứ 10 quy định: "Người già, người tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ" [66, Điều 67]; "Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật được học văn hóa và học nghề phù hợp" [66, Điều 59]. Đồng thời khẳng định mọi thành viên, bao gồm cả người khuyết tật đều được nhà nước bảo đảm quyền công dân như nhau và đều được hưởng các thành quả chung của sự phát triển xã hội.

Ngày nay, nước ta đã có một hệ thống cơ chế chính sách và pháp luật về người khuyết tật nhằm đảm bảo người khuyết tật được trợ giúp và hòa nhập cộng đồng. Chính phủ đã tạo ra một khung pháp lý để lồng ghép những nguyên tắc của xã hội và đạo đức của con người đối với từng gia đình và cộng đồng nhằm trợ giúp cho người khuyết tật.

Dựa trên Hiến pháp sửa đổi năm 1991, ngày 30 tháng 7 năm 1998, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh về người tàn tật. Pháp lệnh gồm 8 chương và 35 điều thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước trong việc khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn húa, xã hội và phát huy khả năng bản thân để ổn định đời sống, hòa nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội.

Pháp lệnh về Người tàn tật năm 1998 là một bước cơ bản đầu tiên nhằm xây dựng một khung pháp lý về quyền của người khuyết tật. Mục tiêu của Pháp lệnh về Người tàn tật là tạo ra một khung pháp lý nhằm bảo vệ người khuyết tật trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, giáo dục, văn hóa, thể thao, tiếp cận, trợ giúp xã hội nhằm đảm bảo người khuyết tật hòa nhập vào cộng động dựa trên nguyên tắc chia sẻ trách nhiệm xã hội và tôn trọng nhân quyền.

Pháp lệnh này phản ánh rõ trách nhiệm của gia đình, nhà nước, xã hội và cộng đồng đối với người tàn tật trong tất cả các lĩnh vực của đời sống. Pháp lệnh cũng quy định rõ nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho người tàn tật tham gia đầy đủ và bình đẳng vào các hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị của đất nước, đồng thời tạo khả năng ổn định cuộc sống, hòa nhập vào cộng đồng và tham gia vào các hoạt động của xã hội. Cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc và hỗ trợ các thành viên trong gia đình có người tàn tật phục hồi chức năng, học tập, làm việc và tham gia vào các hoạt động xã hội.

Tính từ khi Pháp lệnh người tàn tật ra đời đến hết năm 2008, Quốc hội, Ủy ban thường Vụ quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành và cơ quan Trung ương đã ban hành 19 Luật chuyên ngành có chương, điều quy định về các nội dung liên quan trực tiếp đến quyền, lợi của người khuyết tật, trách nhiệm của gia đình, nhà nước và xã hội đối với người khuyết tật. Đặc biệt như Bộ Luật Lao động năm 1994 có quy định riêng 1 chương về lao động là người tàn tật, Luật dạy nghề năm 2007 có 01 chương 5 điều quy định chi tiết về dạy nghề cho người tàn tật, khuyết tật, Luật giáo dục năm 2005 không có chương riêng đối

với học sinh, giáo viên là người khuyết tật, nhưng có tới 8 điều quy định liên quan giáo dục đối với học sinh bị tàn tật, khuyết tật; Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em có 5 điều quy định liên quan đến các giải pháp, chính sách dành riêng đối với trẻ em khuyết tật, tàn tật; Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 có 3 điều; Luật thể dục thể thao năm 2006 có 01 điều quy định về thể dục thể thao cho người khuyết tật; Luật công nghệ thông tin năm 2006 có 3 điều quy định đối với người khuyết tật; các luật Hôn nhân gia đình, Giao thông đường bộ năm 2008, Hàng không dân dụng, Đường sắt, Xây dựng, Thanh niên, Bảo hiểm xã hội năm 2007, Bộ Luật Dân sự, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế chuyển quyền sử dụng đất; Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, Pháp lệnh Nghĩa vụ lao động công ích, Pháp lệnh Người cao tuổi, Pháp lệnh Thư viện, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh Dân số đều có các quy định liên quan trực tiếp đến quyền, chính sách và các biện pháp đảm bảo để người khuyết tật thực hiện các quyền và hòa nhập cuộc sống xã hội như những người bình thường khác.

Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XII đã thông qua Luật người khuyết tật, góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính sách dành cho người khuyết tật.

1.4.2. Quyền cơ bản của người khuyết tật

Trên thế giới, quan niệm về quyền của người khuyết tật được thể hiện trong quy định pháp luật của các quốc gia và cơ bản giống nhau ở các quyền cơ bản như: chính trị, văn hóa, giáo dục, lao động việc làm, y tế, thể thao, giải trí,...nhưng cách tiếp cận các quyền đó tương đối khác nhau phụ thuộc vào chính sách của từng nước.

Theo quy định của Công ước về quyền của người khuyết tật ban hành ngày 6 tháng 12 năm 2006, của Đại hội đồng Liên hợp quốc thì mục đích của Công ước này là thúc đẩy, bảo vệ và đảm bảo người khuyết tật được hưởng

đầy đủ và bình đẳng tất cả quyền con người và quyền tự do cơ bản và thúc đẩy sự tôn trọng phẩm giá vốn có của họ. Người khuyết tật có tám quyền chung và mười quyền đặc thù về lĩnh vực khuyết tật gồm gồm: Quyền được công nhận bình đẳng trước pháp luật; Quyền tự do và an ninh con người; Quyền chống bị hành hạ; Quyền được bảo vệ sự toàn vẹn của con người; Quyền tự do di chuyển và tự do quốc tịch; Quyền tự do ngôn luận; Quyền được tôn trọng sự riêng tư; Quyền tham gia hoạt động cộng đồng; Quyền chống bị bóc lột; Quyền được tôn trọng về nhà ở và gia đình; Quyền được sống; Quyền sống độc lập và hòa nhập cộng đồng; Quyền về giáo dục; Quyền về y tế; Quyền được hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng; Quyền về lao động và việc làm; Quyền có mức sống phù hợp và bảo trợ xã hội đầy đủ; và Quyền được tham gia hoạt động văn hóa.

Như vậy, Công ước tiếp cận người khuyết tật ở góc độ khẳng định, bảo đảm và thừa nhận các quyền của người khuyết tật. Đây là một công ước rất văn minh, thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ cao đối với người khuyết tật, đặc biệt trên phương diện quyền.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, người khuyết tật được đảm bảo những quyền cơ bản gồm: Quyền tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội; Quyền sống độc lập, hòa nhập cộng đồng; Quyền được miễn hoặc giảm một số khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội; Quyền được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật; và các quyền khác theo quy định của pháp luật. Các quyền nêu trên được khẳng định tại Điều 4 của Luật Người khuyết tật.

Ngoài ra, một số quyền đặc thù như chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề,….lại được quy định cụ thể tại các điều khác trong Luật người khuyết tật và các văn bản hướng dẫn thi hành luật người

khuyết tật. Dưới đây là một số quyền đặc thù được quy định cụ thể trong Luật người khuyết tật và các văn bản hướng dẫn thi hành.

1.4.2.1. Quyền chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng

Các quyền này được quy định tại Chương III Luật người khuyết tật, gồm 6 điều, từ Điều 21 đến Điều 26 quy định về Chăm sóc sức khỏe ban đầu tại nơi cư trú; Khám bệnh, chữa bệnh; Trách nhiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng; Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng; Nghiên cứu khoa học, đào tạo chuyên gia, kỹ thuật viên, sản xuất trang thiết bị dành cho người khuyết tật.

1.4.2.2. Quyền về giáo dục

Các quyền này được quy định tại Chương IV Luật người khuyết tật gồm 4 điều, từ Điều 27 đến Điều 31 quy định về chính sách giáo dục đối với người khuyết tật; các phương thức giáo dục người khuyết tật bao gồm giáo dục hòa nhập, giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt; các chính sách, chế độ đối với cán bộ, giáo viên, giảng viên và nhân viên hỗ trợ giáo dục người khuyết tật; trách nhiệm của cơ sở giáo dục và trung tâm hỗ trợ giáo dục hòa nhập trong việc tạo điều kiện về bảo đảm cơ sở vật chất và thực hiện giáo dục đối với người khuyết tật.

1.4.2.3. Quyền về dạy nghề và việc làm

Các quyền này được quy định tại Chương V Luật người khuyết tật gồm 4 điều, Điều 32 và Điều 35 quy định về các chính sách Dạy nghề đối với người khuyết tật; Việc làm đối với người khuyết tật; Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật; Chính sách nhận người khuyết tật vào làm việc.

1.4.2.4. Quyền về văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch

Các quyền này được quy định tại chương VI của Luật người khuyết tật gồm 3 điều, từ Điều 36 đến Điều 38 quy định chính sách, trách nhiệm của nhà

nước, xã hội và các cơ sở văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch trong việc bảo đảm các điều kiện để người khuyết tật tiếp cận và tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch.

1.4.2.5. Quyền tiếp cận xây dựng, công trình công cộng, phương tiện giao thông, thông tin và truyền thông

Các quyền này được quy định tại chương VII của Luật người khuyết tật gồm 5 điều, từ Điều 39 đến Điều 43 quy định về các điều kiện trong việc phê duyệt thiết kế đầu tư xây dựng mới, lộ trình cải tạo công trình công cộng nhằm bảo đảm các điều kiện tiếp cận và sử dụng của người khuyết tật; tham gia giao thông của người khuyết tật; phương tiện giao thông và các chính sách, biện pháp bảo đảm người khuyết tật tiếp cận giao thông, tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông.

1.4.2.6. Quyền được bảo trợ xã hội

Các quyền này được quy định tại chương VIII của Luật người khuyết tật gồm 5 điều, Điều 44 và Điều 48 quy định về các chính sách trợ cấp xã hội đối với người khuyết tật, gia đình người khuyết tật, người nhận nuôi dưỡng và chăm sóc người khuyết tật; chính sách nuôi dưỡng tập trung trong cơ sở chăm sóc người khuyết tật; chính sách hỗ trợ mai táng; cơ sở chăm sóc người khuyết tật.

Người khuyết tật ý thức được họ là một bộ phận cấu thành của xã hội không thể tách rời và họ cũng có trách nhiệm trong việc tham gia vào các hoạt động của cồng đồng và đóng góp vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia và cũng có quyền được hưởng đầy đủ những thành quả phát triển của nhân loại.

Về mặt luật pháp, một số quốc gia cũng quy định trách nhiệm của người khuyết tật như: "Nhà nước khích lệ người khuyết tật thể hiện tinh thần tự trọng, sự tự tin, tinh thần tự lực và có đóng góp xây dựng xã hội. Người khuyết tật cần phải tuân thủ luật pháp, thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, tôn trọng đạo đức xã hội" [26].

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 21/01/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí