hệ pháp luật tố tụng hình sự cũng không phải ngoại lệ. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự người bị buộc tội là một bên chủ thể tham gia vào việc giải quyết vụ án. Khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án họ mong muốn đặt được những lợi ích nhất định và để họ đạt được những lợi ích hợp pháp đó thì pháp luật tố tụng hình sự phải quy định cho họ các quyền và nghĩa vụ pháp lý, đó là nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Trong một quan hệ pháp luật tố tụng hình sự các chủ thể của quan hệ sẽ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Quyền của chủ thể này sẽ là nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược lại. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được pháp luật quy định các nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm còn người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can) được pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý. Khi tham gia tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra người bị buộc tội phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và các chủ thể có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng buộc họ phải chấp hành nếu không tự giác thực hiện. Bên cạnh nghĩa vụ pháp lý, pháp luật tố tụng hình sự phải quy định cho người bị buộc tội các quyền phù hợp với địa vị tố tụng của họ. Việc quy định các quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án để họ có thể bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời góp phần xác định sự thật của vụ án. Pháp luật tố tụng hình sự quy định cho các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự những quyền, nghĩa vụ nhất định và các quyền, nghĩa vụ này phù hợp với địa vị tố tụng của mỗi loại chủ thể.
- Nội dung của quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Nội dung của quyền là những việc, những điều, những hành vi tố tụng mà người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can được hưởng, được bảo đảm thực hiện khi tham gia tố tụng với các tư cách của người bị buộc tội. Đồng thời người bị buộc tội được đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền phảo thỏa mãn, đáp ứng và đảm bảo đầy đủ các quyền này cho họ.
- Quyền của người bị buộc tộitrong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự được ghi nhận và bảo đảm bởi các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Pháp luật là yếu tố có vị trí quan trọng nhất trong một nhà nước pháp quyền. Quyền con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng là một giá trị cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại và là đặc trưng tự nhiên vốn có cần được tôn trọng và không thể bị tước đoạt của bất kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất, đồng thời phải được bảo vệ bởi pháp luật của các quốc gia thành viên, cũng như bởi cộng đồng quốc tế. Bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự bằng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự là một yêu cầu tất yếu, khách quan. Trong giai đoạn hiện nay việc ghi nhận và đảm bảo các quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo quyền con người của họ. Ở bình diện chung, pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận và đảm bảo quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự ở nhiều mức độ khác nhau. Ở mức độ chung nhất quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự được ghi nhận và đảm bảo thông qua hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự (nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm…). Ở phương diện cụ thể, BLTTHS năm 2015 xây dung các điều luật quy định cụ thể về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự. Việc pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận và đảm bảo các quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc đảm bảo quyền của họ trong thực tiễn tố tụng, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp chế, tính công khai, minh bạch của pháp luật, cũng như phản ánh bản chất nhân đạo của Đảng và Nhà nước trong việc tôn trọng và đảm bảo quyền con người của quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
- Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) có trách nhiệm phải tôn trọng và đảm bảo các quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
Trong quá trình giải quyết vụ án, pháp luật tố tụng hình sự cũng ghi nhận trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và đảm bảo các quyền của người bị buộc tội. Các hoạt động tố tụng hình sự mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự các chủ thể mang quyền lực nhà nước có trách nhiệm phải thông báo, giải thích và đảm bảo cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can được hưởng hoặc thực hiện đầy đủ các quyền mà pháp luật đã ghi nhận cho họ. Trong quá trình tố tụng, các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời thay đổi hoặc hủy bỏ những biện pháp ấy nếu xét thấy vi phạm hoặc không còn cần thiết. Trường hợp người bị buộc tội cho rằng cơ quan, người có thẩm quyền chưa đảm bảo các quyền của họ trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự theo quy định của pháp luật thì họ có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo hoặc thực hiện quyền khiếu nại.
Người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự trước hết họ vẫn là một con người và được xác định là chưa có tội, vì vậy khi tham gia tố tụng họ phải được pháp luật ghi nhận và đảm bảo các quyền con người tự nhiên vốn có như quyền đảm bảo tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm… đây là quyền con người mà tất cả những người tham gia tố tụng đều được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện. Việc ghi nhận đảm bảo các quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung và quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng trong pháp luật tố tụng hình sự phải trên cơ sở chuẩn mực pháp lý quốc tế về bảo vệ quyền con người, trên cơ sở tinh thần tiến bộ của Hiến pháp năm 2013.
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định về quyền của người bị buộc tội trong TTHS
- Ý nghĩa về mặt lý luận
Những quy định trong bộ luật TTHS về người bị buộc tội là những quy xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, chính vì vậy, việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận bởi nó sẽ làm cơ sở cho việc nghiên cứu các quyền và nghĩa vụ pháp lý của những người này. Mặc khác, căn cứ vào những đánh giá, nhìn nhận đó, các nhà làm luật có thể tìm ra các biện pháp để hoàn thiện pháp luật, áp dụng pháp luật, đảm bảo tính ứng dụng trong thực tiễn của pháp luật, để từ đó có thể đánh giá, nhìn nhận những điểm tích cực, những hạn chế của các quy định pháp luật trong BLTTHS
Có thể bạn quan tâm!
- Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Dương - 1
- Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Dương - 2
- Mối Quan Hệ Giữa Quyền Của Người Bị Buộc Tội Trong Giai Đoạn Khởi Tố, Điều Tra Vụ Án Hình Sự Với Một Số Nguyên Tắc Cơ Bản Trong Luật Tố Tụng
- Quy Định Của Pháp Luật Về Quyền Tố Tụng Chung Của Người Bị Bắt, Người Bị Tạm Giữ, Bị Can Trong Giai Đoạn Khởi Tố , Điều Tra Vụ Án Hình Sự
- Thực Tiễn Áp Dụng Quy Định Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Về Quyền Của Người Bị Buộc Tội Trong Giai Đoạn Khởi Tố, Điều Tra Từ Thực Tiễn Tỉnh Bình
Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.
- Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Việc quy định quyền của người bị buộc tội trong BLTTHS có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi trong thực tiễn tố tụng hình sự hiện nay. Việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong thực tế còn là việc đảm bảo cam kết về thực thi quyền con người theo các Điều ước Quốc tế hiện nay
Bên cạnh đó, việc xác lập quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội còn tránh sự xâm hại từ phía các cơ quan tố tụng, góp phần định hướng và chỉ đạo cho những người thực thi pháp luật, tránh những sai sót, vi phạm quyền con người, đảm bảo sự khách quan, thận trọng trong việc nhận thức vụ án hình sự một cách khoa học, không làm oan người vô tội, không làm bỏ lọt tội phạm điều này không chỉ ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước mà còn gây ra tâm lý không tin tưởng vào pháp luật của người dân.
Mặc khác, việc quy định quyền của người bị buộc tội còn có ý nghĩa trong ngăn ngừa, phòng chóng tội phạm. Điều này ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tố tụng hình sự, bởi vì người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tuy chưa bị coi là có tội nhưng họ có thể là người đã thực hiện hành vi phạm tội, nếu không có những biện pháp ngăn chặn thì rất có thể hậu quả tiêu cực cho xã hội. Việc ngăn ngừa và phòng chóng tội phạm còn có ý nghĩa về một Nhà nước pháp quyền, nơi pháp luật luôn tồn tại và công minh.
- Ý nghĩa chính trị xã hội
Việc quy định quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự có ý nghĩa trong việc bảo đảm quyền con người. Thể hiện tính hội nhập công ước quốc tế về quyền con người. Quyền con người được thể hiện trong Hiến pháp và pháp luật. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, nơi mà quyền con người dễ bị xâm phạm nhất, việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội có ý nghĩa vô cùng quan trong bởi quy định quyền của người bị buộc tội cũng chính là quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, tạo ra sự bình đẳng trong quá trình tố tụng.
- Ý nghĩa pháp lý
Việc quy định quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự là cơ sở cho hoạt động tố tụng đúng pháp luật; đảm bảo hoạt động tố tụng nhanh chóng, khách quan. đúng sự thật vụ án. Đảm bảo cho người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ. Việc quy định đầy đủ, chặt chẽ các quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội sẽ hạn chế đến mức thấp nhất việc lạm dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với người bị buộc tội.
Bên cạnh đó, việc pháp luật tố tụng hình sự quy định quyền cho người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự góp phần xác định sự thật của vụ án.Xác định sự thật của vụ án hình sự là mục tiêu hướng tới của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp theo quy định của BLTTHS để xác định sự thật của vụ án. Sau khi đã xác định được sự thật của vụ án thì sẽ ra các quyết định tố tụng nhằm giải quyết vụ án. Để xác định sự thật của vụ án hình sự CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật, trong số đó, có những hoạt động tố tụng nhằm thu thập chứng cứ có liên quan trực tiếp đến người bị buộc tội. Trong quá trình cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành các tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm thu thập chứng cứ để xác định sự thật của vụ án người bị buộc tội có thể thực hiện các quyền mà pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời việc thực hiện các quyền này
sẽ góp phần xác định sự thật của vụ án, hạn chế oan sai trong giai đoạn khởi tố, điều tra hình sự. Chẳng hạn như quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, quyền yêu cầu, quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, đánh giá, quyền đề nghị giám định, định giá tài sản, tự bào chữa, nhờ người bào chữa, quyền khiếu nại… Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nếu cơ quan, người có thẩm quyền tôn trọng và đảm bảo cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ các quyền mà pháp luật tố tụng hình sựđã quy định sẽ góp phần quan trọng trọng việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án, hạn chế những sai lầm, vi phạm trong quá trình tố tụng.
Như vậy, việc pháp luật tố tụng hình sự quy định các quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án, đồng thời việc quy định quyền người bị buộc tội trong các giai đoạn tố tụng này tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho họ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng.
1.1.4. Cơ sở của việc quy định quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
- Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự được được quy định trên cơ sở Công ước quốc tế về đảm bảo quyền con người nói chung và quyền con người của người bị buộc tội nói riêng.
Việt Nam là một quốc gia dân chủ, luôn nỗ lực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nêu cao vấn đề nhân quyền. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rò: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại”. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ những giá trị cao quý về quyền con người được thế giới thừa nhận rộng rãi. Đảng chỉ đạo “Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính về phẩm giá con người”. Quyền con người là một quyền thiêng liêng và được thừa nhận từ lâu đời, tuy nhiên, ở mỗi quốc gia
khác nhau, với nền kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo và lịch sử đặc thù sẽ có những quy định cụ thể khác nhau, nhưng vẫn phải đảm bảo được những giá trị phổ biến chung của nền văn minh nhân loại. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự chính là bảo đảm quyền sống, quyền được tự do, quyền tố tụng mà pháp luật quy định, đây được coi là tiêu chuẩn về nhân quyền trong tố tụng hình sự. Chúng ta có thể tìm thấy trong các văn kiện quốc tế về đảm bảo quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; Công ước chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con người năm 1985. Theo Điều 10 và 11 Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 và Điều 14, 15 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, quyền con người trong tố tụng hình sự bao gồm: Quyền bình đẳng trước pháp luật; Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và quyền tự do cá nhân khác; Quyền được suy đoán vô tội; Quyền bào chữa; Quyền được xét xử nhanh chóng, kịp thời; quyền khiếu nại;…
Việt Nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Trong nhà nước pháp quyền, quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ cả ở phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả xâm phạm, quyền con người tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, quyền của người bị buộc tội là một vấn đề nhạy cảm, dễ bị xâm phạm và để lại hậu quả nghiêm trọng nhất. Vì các quyết định tố tụng và hành vi tố tụng của các chủ thể có thẩm quyền có thể tác động trực tiếp đến quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa của con người, của công dân.
Việt Nam là thành viên của các Công ước nói trên, với nghĩa vụ của quốc gia trong việc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế, Việt Nam có trách nhiệm nội luật hóa tinh thần của Công ước quốc tế vào trong hệ thống pháp luật của quốc gia để triển khai thực hiện có hiệu quả trên thực tế. Trên cơ sở các văn bản pháp luật quốc tế nêu trên, Các quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra ở Việt Nam đã được quan tâm nghiên cứu và ngày càng hoàn thiện. Việc quy định các quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn
khởi tố, điều tra phải đảm bảo sự phù hợp với chuẩn mực pháp lý quốc tế, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa trên cả hai phương diện là xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật.
- Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự được được quy định trên cơ sở quy định tinh thần của Hiến pháp năm 2015 về đảm bảo quyền con người.
Hiến pháp năm 2013 đã nội luật hóa các quyền con người của người bị buộc tội trong các Công ước, đồng thời đảm bảo thực hiện các quyền này trên thực tế. Hiến pháp năm 2013 đã quy định các nguyên tắc cơ bản: Nguyên tắc bảo vệ quyền cơ bản của con người, của công dân; bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền được suy đoán vô tội, quyền bào chữa, quyền được xét xử kịp thời, công bằng, công khai, quyền khiếu nại… Các quyền này được đảm bảo trong tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ, trong đó có giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Mọi hoạt động tố tụng, hành vi và quyết định tố tụng của các chủ thể có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ án phải hướng đến mục đích tôn trọng và đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội. Vì vậy, việc quy định quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tả vụ án hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo quyền con người, quyền công dân nói chung và quyền của người bị buộc tội nói riêng, phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
- Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khời tố, điều tra vụ án hình sự được được quy định trên cơ sở đảm bảo hiệu quả của các hoạt động tố tụng, phù hợp với tư duy lập pháp, mô hình tố tụng và các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội ở Việt Nam
Việc quy định quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự phải trên cơ sở sự tương thích với các điều kiện nội tại của Việt Nam. Pháp luật là một yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng vì vậy phải được xây dựng dựa trên những điều kiện đặc thù của Việt Nam, có nhu vậy mới đảm bảo hiệu quả của các hoạt động tố tụng, đảm bảo tính khả thi trong việc thực hiện các quyền của người bị buộc tội. Đảng ta chủ trương không chuyển đổi mô hình tố tụng mà chỉ đặt